Ý cầu nguyện tháng

- Ý CẦU NGUYỆN THÁNG 10:

Cầu cho sứ vụ của người giáo dân trong Giáo Hội:
Xin cho các Kitô hữu giáo dân, cách riêng là phụ nữ, khi đã lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, có thể tham gia nhiều hơn vào các cơ quan hữu trách của Giáo Hội.

Chủ Nhật, 30 tháng 4, 2017

CHÚC MỪNG LỄ THÁNH GIUSE THỢ - Bổn mạng Giáo khu 2



Những bài học từ cuộc đời Thánh Cả Giuse
Nói về thánh Giuse thì có rất nhiều cảm hứng trình bày, nhiều khía cạnh phân tích, nhiều đề tài chia sẻ và nhiều bài học tâm linh. Thế nhưng, Ngài lại là một vị thánh sống âm thầm lặng lẽ, hiếm ngôn từ, không muốn nói là cô độc, đơn côi vì đời sống ẩn dật, thinh lặng, không có gì nổi bật của Ngài. Ngài cũng là một vị thánh được trình bày trong Phúc âm rất ít, có thể nói là rất mờ nhạt, không có gì nổi bật dưới con mắt người đời. Điều quan trọng muốn nói trong cuộc đời của thánh Giuse, không phải là những gì ngài đã làm mà là những gì ngài đã sống, đã thực thi sứ mạng được Thiên Chúa giao phó. Qua đời sống của ngài chúng ta càng nhận diện rõ ràng và sâu sắc tình yêu sâu thẳm của Thiên Chúa đối với toàn thể nhân loại.
Theo thánh sử Luca, "sau khi đã cẩn thận tra cứu đầu đuôi mọi sự" (x.Lc 1,3). Thánh sử cho biết Giuse - quê ở Bê-lem, thuộc chi họ Giuđa, là dòng họ và là hậu duệ đời thứ 40 của vua Đavít (x.Lc 3,23-31), và làm nghề thợ mộc (Mt 13,55) với gia cảnh tầm thường trong giới bình dân lúc đó (x.Lc 2,24). Được đính hôn với Maria, quê ở Nadarét, cũng thuộc chi họ Giuđa và trong miêu duệ vua Đavít. Đây đúng là một gia đình nghèo, chẳng giàu có tiếng tăm gì trong xã hội đương thời. Mặc dù cũng thuộc dòng dõi "đế vương" nhưng nói được là "có tiếng mà không có miếng" trong xã hội lúc ấy. Nhưng cả hai vị đã được Thiên Chúa tuyển chọn, trở nên "cộng tác viên" đặc biệt trong mầu nhiệm Con-Thiên-Chúa nhập thể.
Rồi Phúc Âm tường thuật cho chúng ta biết thêm về thánh Giuse qua bốn lần thiên thần báo mộng với Ngài như sau:
Lần thứ nhất, qua biến cố "truyền tin" - Thiên thần hiện đến trong lúc ngài đang bối rối nghi nan khi biết Đức Maria có thai, để bảo cho ngài biết: "người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần" (Mt.1,20b). Nói cách khác là Mẹ Maria đã cưu mang người con mà không có sự can thiệp của người phàm. Ngày nay lắm khi vẫn bị "sốc" khi chồng nghe tin vợ mình như thế, huống hồ vào thời đó! Lại còn do "thần thánh" nữa, thật khó tin làm sao (theo nhãn giới đương thời)! Chuyện xảy ra "động trời" như vậy nhưng ngài vẫn an tâm tiếp tục ngon giấc. Rồi: "Khi tỉnh giấc, ông Giuse đã làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà" (Mt.1,24).
Lần thứ hai, Thiên thần đến bảo đem Hài Nhi và mẹ Ngài trốn qua Ai Cập, kẻo Hêrôđê lùng giết. Giuse không nói, không rằng "liền trỗi dậy, và đang đêm, đưa Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai Cập" (Mt.2,14). Sử liệu cho biết Hêrôđê Cả qua đời khoảng 3 năm sau đó. Đó cũng chính là thời gian Gia-đình-thánh sinh sống nơi đất khách. Chắc vất vả, khó khăn không ít khi phải tha hương ?
Lần thứ ba, sứ thần Chúa lại hiện ra với thánh Giuse ở bên Ai cập, bảo trở về đất Ít-ra-en, vì những kẻ tìm giết Hài Nhi đã chết rồi (x.Mt 2,19-20). Giuse dự định đưa gia đình về ở Bêlem.  Nhưng nghe tin Ác-khê-lao vốn tính hung bạo, lên làm vua xứ Giuđê thay cha, nên ngài sợ không dám về nơi đó.
Lần thứ tư, được báo mộng đem Đức mẹ và Chúa Hài Nhi lui về miền Galilê, và định cư tại thành Nadarét (x.Mt 2, 22-23). Lúc ấy, Nadarét là một ngôi làng vô danh ở Galilê, dân số tối đa chỉ khoảng 400. Quá nhỏ bé và tầm thường ! đến nỗi về sau - Nathanaen - một môn đệ Đức Giêsu đã nhận xét: "Từ Nadarét, làm sao có cái gì hay được?" (Ga 1,46).
Sống rất kỷ cương, mẫu mực, đạo đức và thánh thiện. Vì hàng năm, thánh Giuse đều đưa Đức Maria và Hài nhi Giêsu đi hành hương Đền thờ Giêrusalem cách nhà khoảng 65 km (Lc 2,41).
 Tương truyền, thánh Giuse qua đời trước khi Chúa Giêsu ra rao giảng Tin Mừng Nước Trời. Vì không còn thấy ngài xuất hiện cùng Mẹ Maria và xuất hiện giữa bà con thân thuộc (Mc 3, 31-35; Ga 2,1)
Cuộc đời của Thánh Giuse chỉ có thế. Đơn giản, vắn tắt, cô đọng vài mươi dòng. Nhưng lại có tầm ảnh hưởng đặc biệt lớn mạnh và sâu rộng trong đời sống các tín hữu và đời sống Giáo hội. Đa phần các chủng viện, các dòng tu, các tổ chức, các hiệp hội, các cơ sở giáo dục, các cơ sở y tế và các cá nhân Công giáo đều chọn thánh Giuse làm quan thầy bầu cử cho mình và ngài được tôn kính là thánh cả trong hàng ngũ các thánh ! Cuộc sống của thánh nhân là cả một cuộc đời ẩn dật, âm thầm, khiêm nhượng, phó thác, dũng cảm và khôn ngoan. Thánh Giuse đã tận tụy gìn giữ gia đình Nadarét mà Chúa trao phó cho Ngài coi sóc, trông nom. Ngài đã hoàn thành sứ mạng Chúa trao với tất cả lòng tin mạnh mẽ, trông cậy vững vàng, phó thác tất cả vào Chúa quan phòng.
Qua đó, chúng ta thủ đắc được những bài học quý báu sau:
Bài học đức tin: mạnh mẽ, sống động. Qua những lần được thiên thần báo mộng, thánh Giuse đã đáp lại bằng thái độ mạnh tin, vững tin, chắc tin. Niềm tin này của ngài được minh chứng qua hành động: lập tức thi hành ngay điều mình tin. Không một chút chần chừ, đắn đo. Thiên thần truyền lệnh kêu làm là ngài làm, gọi đi là ngài ra đi, rồi bảo trở về là ngài về. Thực hiện mau mắn, chuẩn xác: đúng giờ, đúng lúc, đúng nơi, đúng chỗ. Không do dự, không hoài nghi, không thắc mắc, không nghi nan.
Ngài đã "hành động" để dạy chúng ta từ nhìn thấy, rồi bắt đầu cảm nhận, để sau cùng hiểu biết tường tận thế nào là "tin". Bởi vì, không phải hễ nói "tin" như cách chúng ta vẫn thường tuyên xưng đức tin như bấy lâu nay, thì đã là thành "đức tin". Nhưng phải là những đòi hỏi buộc "sống cho" (phục vụ), "sống vì" (bảo vệ) niềm tin bằng "việc làm" một cách cụ thể, mà về sau thánh Giacôbê cũng đã giáo huấn như vậy (x. Gc 2, 14-26). Cuối cùng, việc "làm-tin" cần phải được tác động và kiện toàn bởi đức ái (ICr 13,2, Gl 5,6). Thật vậy, chính căn cứ trên hành động mà mỗi người được lượng giá tội - phúc đời mình (Rm 2,6). Thật hạnh phúc khi nhìn lên thánh Cả là thầy dạy đức tin !
Bài học khiêm nhường, phó thác: Thánh Giuse đã hoàn toàn phó thác đời mình cho Chúa cách khiêm nhường. Ngài phó thác cả quyền tự do của mình, quyền lựa chọn hạnh phúc lứa đôi của mình, để mặc Thiên Chúa định đoạt, sử dụng ngài làm "cộng tác viên đặc biệt" cho chương trình Cứu độ, đó là: làm bạn "trăm năm" với Mẹ Maria, làm dưỡng phụ của Hài nhi Giêsu cách hợp pháp theo lề luật. Cũng với biến cố ấy, khi sứ thần Gáp-ri-en báo tin cho Đức Maria thì Mẹ còn hỏi lại: "Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!" (Lc.1,34) Còn thánh Giuse thì im lặng tin ngay, làm ngay. Bởi vì ngài biết rõ, càng sử dụng trí óc hạn hẹp của con người để cố gắng hiểu những điều bí nhiệm của Thiên Chúa thì càng chẳng hiểu được gì hoặc sẽ hiểu sai lạc. Thay vì để cố gắng hiểu ý Chúa bằng trí não, thánh Giuse đã hết lòng bảo vệ Đức Mẹ và Con Chúa, bằng hành động "quẳng gánh lo đi" mà phó thác tất cả cho Chúa. Làm cho nhân loại thấy sự lạ lùng Thiên Chúa đã làm nơi Đức Mẹ qua Chúa Thánh Thần.
Thánh Giuse quả thực là một người hết sức lạ lùng. Vì trong thánh ý nhiệm mầu của Thiên Chúa, Ngài đã sống hết sức khiêm nhượng, hoàn toàn vâng phục Thiên Chúa.
Bài học gia đình: Thánh Giuse là giáo trình đào tạo các gia trưởng một cách chuẩn mực. Vì ngài đã tận tụy dưỡng nuôi Chúa Giêsu và bảo vệ, yêu thương săn sóc mẹ Maria trong suốt quãng đời phu thê và nắm giữ vai trò trụ cột trong gia đình. Ngài đã chu toàn bậc sống gia đình với tất cả trách nhiệm và gánh nặng của bậc sống ấy. Sống một tình yêu trinh khiết, thánh thiện thay cho tình yêu vợ chồng theo cách tự nhiên. Vì rằng ngài ý thức được rằng gia đình ngài đang bảo bọc, chăm sóc là gia-đình-thánh, gia đình gương mẫu cho mọi gia đình khác, gia đình mà trong đó có Con-Thiên-Chúa-làm-người, gia đình được hình thành từ hành động đầy tính sáng tạo của Thiên Chúa. Để từ nay trở đi, gia đình là khuôn-thánh-sáng-tạo vì Thiên Chúa đã can dự vào đời sống nhân trần.
Bài học lao động: Thánh Giuse làm thợ mộc tại Nadaret. Thuật ngữ Hy lạp, "tekton" (τέκτων): thợ mộc. Được định nghĩa là một nghệ nhân chế tác đồ đạc từ gỗ, từ sắt hoặc từ đá. Ngày nay, thợ mộc bị xem là nghề rẻ tiền, thấp kém; vì bị đồ kỹ nghệ công nghiệp lấn áp. Nhưng suy cho cùng, thì ngành mộc đang bắt đầu hồi sinh trở lại và đang dần chiếm thế thượng phong như trước. Theo thuật ngữ trên, lúc đó thợ mộc là "nghệ nhân" thuộc ngành thủ công mỹ nghệ, chứ không đơn thuần chỉ biết cưa xẻ, bào đục, lắp ráp thông thường mà thôi. Đó là một nghề "thời thượng" lúc bấy giờ, một nghề tuy đơn giản nhưng không hẳn thấp kém như người ta nghĩ. Vậy không nghi ngờ gì "danh tiếng" của thánh Giuse lúc ấy và ngài đã tâm huyết truyền nghề lại cho Chúa Giêsu, dân chúng đương thời ai cũng đều biết đến cha con ngài (x. Mt 13,55; Mc 6,3). Như vậy, thánh Giuse là một "nghệ nhân" tài hoa, không hẳn chỉ là bác thợ mộc tầm thường như mọi người suy nghĩ lâu nay, tuy dù tính đặc thù của nghề có vất vả, lao nhọc. Xem ra vẫn "oách" hơn nghề ngư phủ hay thâu thuế của thập-nhị-tông-đồ sau này ! Với đôi tay gân guốc dân dã, cần cù chuyên chăm lao động và bầu nhiệt huyết yêu nghề, thánh Cả đã tạo tác nhà cửa, vật dụng sinh hoạt, thổi hồn vào các vật liệu chế tác, tô điểm làm đẹp đời sống gia đình; tạo nên những thành công trong nghệ thuật cuộc sống, bất chấp mọi gian lao, khổ cực hay vất vả trong đời thường. Thánh nhân đã làm với một tâm tình yêu mến, thiện hảo và tự hiến cho gia đình, cho xóm giềng. Từ đó, ngài đã đem lại cho lao động một giá trị và một ý nghĩa mới, ngoài giá trị tự nhiên và giá trị xã hội vốn có của nó. Thiên Chúa đã rút ngắn "khoảng cách" giữa trời với đất, bằng cách chọn sinh ra trong một gia đình nghèo. Qua lao động, là phương tiện để Ngài xích lại gần gia đình nhân loại, chia sẻ cơ cực của kiếp người bằng "tay làm hàm nhai", lấy mồ hôi đổi lấy bát cơm.
Giá trị lao động được đề cao qua gương sáng của thánh Giuse và Chúa Giêsu. Giờ đây lao động là góp phần hoàn thiện việc sáng tạo vũ trụ vạn vật của Thiên Chúa. Làm việc vì danh Chúa, vì hạnh phúc của mình, cũng như của xã hội là một nghĩa vụ, một vinh dự cho con người. Ðó cũng là điều kiện để tiến bộ, để mưu cầu hạnh phúc bây giờ và đời sau. Trên Thiên quốc, ta sẽ được lãnh phần thưởng tùy công việc ta đã làm ở trần gian (Mt 16,27)
Qua lao động, hình thành chiều kích của đức ái và tạo nên những mối liên hệ phát sinh tình huynh đệ tương thân, tương ái trong Đức Kitô, phá vỡ vỏ bọc ích kỷ, khép kín của lòng người, xây dựng xã hội nhân ái, công bình.
Bài học sống nội tâm: điều dễ nhận thấy ở đời sống của thánh Giuse là không nghe ngài nói, hẳn là ngài cũng có nói nhưng lời nói đơn sơ, giản dị, mộc mạc đến nỗi các thánh sử không chú ý đến và ghi chép lưu lại cho hậu thế. Nhưng chắc chắn một điều là ngài rất ít nói, cẩn trọng trong lời nói, nói năng dè dặt, điềm tĩnh, biết giữ thinh lặng, nói năng đúng lúc khi cần. Đó là tiêu chuẩn sự khôn ngoan mà kinh thánh đề cập (x.Cn 17,27-28).
Khi thánh Giuse đưa gia đình lui về ẩn dật tại Nadarét theo lời sứ thần Chúa. Tức là về quê quán của Đức Maria (x.Lc 1,26-27). Về quê vợ, ít nhiều gì ngài cũng chịu điều tiếng là "thực lộc chi thê". Thánh nhân phải can đảm, nhẫn nhục và có sức chịu đựng phi thường lắm vậy ! Ðời sống ẩn dật của thánh Giuse là một đời sống nội tâm, sống chiêm niệm phong phú. Sống nội tâm - "sống bề trong", "sống ẩn kính" -  là một danh từ tu đức học để diễn tả sự hoạt động dồi dào của một linh hồn tín hữu, xuất phát từ những yếu tố bên trong: ân sủng, đức tin, đức mến, hầu tinh luyện linh hồn để kết hợp với Chúa trong tâm tư, trong tình cảm và cả trong hành động nữa. Người tín hữu nào cũng có đời sống siêu nhiên, nhưng đời sống nội tâm thì chỉ có một số người ưu tú đạt tới mà thôi. Ðó là bậc chiêm niệm. Với đời sống trầm mặc, hiếm ngôn; thánh Giuse đã trở thành gương mẫu và thầy dạy đường nhân đức trọn lành. Thánh nữ Têrêsa Avila, tiến sĩ hội thánh đã chứng thực điều đó khi bà viết: "Nhờ ơn thánh Giuse dạy dỗ, chẳng bao lâu tôi đã lên tới bậc chiêm niệm cao sâu. Nếu ai chẳng tìm được thầy dạy cách nguyện ngắm thì hãy xin thánh Giuse dạy cho, ắt chẳng bao lâu, ta sẽ thành thông thạo."
Khám phá và làm hiển lộ sức mạnh hướng thượng trong nội tâm mỗi người là đặc ân cao quý nhất của con người, được tạo hóa ban cho để tự bảo vệ mình trước những nghịch cảnh !
Cuộc sống chúng ta ngày nay quá gấp gáp, vội vã. Người ta - ai nấy hối hả, tất bật như không còn kịp để sống. Chúng ta đang sống ở một thời đại nhân tâm thất tán, ưa nhìn và đánh giá qua bề mặt, nhìn danh lợi tha hóa con người đến cùng cực mà chẳng bận tâm. Người ta mải mê hụp lặn giữa giòng nước xoáy, không kịp vuốt mặt để thở, sống như không bao giờ chết. Người ta không ngần ngại dẫm đạp lên nhau để dành một chỗ đứng, rủa sả, sỉ nhục người lân cận, thậm chí người vô can để có quyền lực trong tay mình. Dù có khi chỉ là ảo tưởng ! Con người ngày nay dễ bị cuốn hút vào giòng xoáy cuộc đời, nếu không biết tạo một khoảng lặng cần thiết. 
Nếu có thể hỏi một hạt cát chìm dưới lòng sông hay lăn lóc trên bãi biển, chắc nó không biết gì nhiều về kích thước nhỏ bé, tầm thường của nó. Nhưng mỗi hạt cát mà thượng đế tạo ra, có khả năng chứa đựng cả giòng sông và cả đại dương !
Vậy, hãy học lấy đời sống gia đình, tín thác của thánh Giuse, vì những nghịch cảnh vẫn đang xảy ra hằng ngày. Hãy tìm đến sự khiêm nhu, cần lao với thánh Giuse vì những nỗi bất an trong lòng vẫn xảy ra vào mỗi thời khắc. Hãy nài xin đời sống thầm lặng, chiêm niệm của thánh Cả giúp hãm bớt sự sôi sụt, những cuốn hút của dòng chảy trần đời. Những tâm hồn nguội lạnh hãy nài xin thánh Cả ban ơn phù trợ, mưa xuống mặt đất "tâm hồn" hoang hóa, khô cằn, từ lâu đã cạn mầm. Để có ngày vươn cao mầm sống thánh thiện.                    
Nguồn: http://www.tinmung.net/TRANGTHANHGIUSE/TimHieuThanhGiuse/Nhung-bai-hoc-tu-cuoc-doi-thanh-ca-Giuse.htm

Thứ Bảy, 29 tháng 4, 2017

Tin Mừng Chúa nhật III Phục Sinh


PHÚC ÂM: Lc 24, 13-35

"Hai ông đã nhận ra Người lúc bẻ bánh".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Cùng ngày thứ nhất trong tuần, có hai môn đệ đi đến một làng tên là Emmaus, cách Giêrusalem độ sáu mươi dặm. Dọc đường, các ông nói với nhau về những việc vừa xảy ra. Đang khi họ nói truyện và trao đổi ý kiến với nhau, thì chính Chúa Giêsu tiến lại cùng đi với họ, nhưng mắt họ bị che phủ nên không nhận ra Người. Người hỏi: "Các ông có truyện gì vừa đi vừa trao đổi với nhau mà buồn bã vậy?" Một người tên là Clêophas trả lời: "Có lẽ ông là khách hành hương duy nhất ở Giêrusalem mà không hay biết những sự việc vừa xảy ra trong thành mấy ngày nay". Chúa hỏi: "Việc gì thế?" Các ông thưa: "Sự việc liên can đến ông Giêsu quê thành Nadarét. Người là một vị tiên tri có quyền lực trong hành động và ngôn ngữ, trước mặt Thiên Chúa và toàn thể dân chúng. Thế mà các trưởng tế và thủ lãnh của chúng ta đã bắt nộp Người để xử tử và đóng đinh Người vào thập giá. Phần chúng tôi, chúng tôi vẫn hy vọng Người sẽ cứu Israel. Các việc ấy đã xảy ra nay đã đến ngày thứ ba rồi. Nhưng mấy phụ nữ trong nhóm chúng tôi, quả thật, đã làm chúng tôi lo sợ. Họ đến mồ từ tảng sáng. Và không thấy xác Người, họ trở về nói đã thấy thiên thần hiện ra bảo rằng: Người đang sống. Vài người trong chúng tôi cũng ra thăm mồ và thấy mọi sự đều đúng như lời các phụ nữ đã nói; còn Người thì họ không gặp". Bấy giờ Người bảo họ: "Ôi kẻ khờ dại chậm tin các điều tiên tri đã nói! Chớ thì Đấng Kitô chẳng phải chịu đau khổ như vậy rồi mới được vinh quang sao?" Đoạn Người bắt đầu từ Môsê đến tất cả các tiên tri, giải thích cho hai ông tất cả các lời Kinh Thánh chỉ về Người. Khi gần đến làng hai ông định tới, Người giả vờ muốn đi xa hơn nữa. Nhưng hai môn đệ nài ép Người rằng: "Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã về chiều, và ngày sắp tàn". Người liền vào với các ông. Đang khi cùng các ông ngồi bàn, Người cầm bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho hai ông. Mắt họ sáng ra và nhận ra Người. Đoạn Người biến mất. Họ bảo nhau: "Phải chăng lòng chúng ta đã chẳng sốt sắng lên trong ta, khi Người đi đường đàm đạo và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta đó ư?" Ngay lúc ấy họ chỗi dậy trở về Giêrusalem, và gặp mười một tông đồ và các bạn khác đang tụ họp. Họ bảo hai ông: "Thật Chúa đã sống lại, và đã hiện ra với Simon". Hai ông cũng thuật lại các việc đã xảy ra dọc đường và hai ông đã nhận ra Người lúc bẻ bánh như thế nào.

Nguồn: http://www.kinhthanhvn.net/30-04-chua-nhat-3-phuc-sinh/

Video: Đức Thánh Cha đến Cairo


Xuất bản 28 thg 4, 2017
Đức Thánh Cha đến Cairo

Toàn văn diễn từ của Đức Thánh Cha Phanxicô tại Đại Học Al-Azhar


Sau 3h bay vượt qua 2130 km, Đức Thánh Cha đã đáp xuống phi trường quốc tế Cairo của Ai Cập, lúc 14h giờ địa phương.

Lễ nghi chào đón Đức Thánh Cha đã được tổ chức tại dinh tổng thống tại Heliopolis. Tại đây, Đức Thánh Cha đã có cuộc gặp gỡ riêng với tổng thống el Sisi và hai vị đã trao đổi quà tặng. Đức Thánh Cha đã tặng tổng thống một huy chương kỷ niệm chuyến viếng thăm này của ngài, trong đó mô tả cuộc chạy trốn sang Ai Cập của Thánh Gia. Huy chương này đã được thiết kế bởi nữ nghệ nhân Daniela Longo.

Sau cuộc viếng thăm xã giao tại dinh tổng thống, Đức Thánh Cha đã đến nói chuyện tại Đại Học Hồi Giáo Al-Azhar trong khuôn khổ của một hội nghị hòa bình do giáo sĩ Hồi Giáo Ahmed el-Tayeb tổ chức quy tụ 300 nhân vật chủ yếu là từ thế giới Hồi Giáo.

Trong diễn từ của ngài, Đức Thánh Cha nói:

As-salamu alaykum! Cầu mong hòa bình ở cùng các bạn!

Tôi xem là một ân sủng tuyệt vời để có thể bắt đầu chuyến thăm của tôi tại Ai Cập ở đây và được nói chuyện với các bạn trong bối cảnh Hội nghị Hòa bình Quốc tế này. Tôi cảm ơn vị Đại Imam vì đã hoạch định và tổ chức Hội nghị này, và thân ái mời tôi tham dự. Tôi muốn đưa ra với các bạn một vài suy nghĩ, dựa trên lịch sử vẻ vang của vùng đất này, mà qua nhiều thời đại đã xuất hiện trước thế giới như một vùng đất của các nền văn minh và một vùng đất của các giao ước.

Một vùng đất của các nền văn minh

Từ thời cổ đại, nền văn hoá nảy sinh dọc theo các bờ sông Nile này đã đồng nghĩa với nền văn minh. Ai Cập nâng cao ngọn đèn kiến thức, khai sáng ra một di sản văn hoá vô giá, bao gồm sự khôn ngoan và sự khéo léo, những khám phá toán học và thiên văn học, và các hình thức kiến trúc và nghệ thuật nổi bật. Việc tìm kiếm kiến thức và giá trị thông qua nền giáo dục là kết quả của những quyết định sáng suốt từ những cư dân cổ xưa của vùng đất này và đã mang lại nhiều hoa trái cho tương lai. Những quyết định tương tự là cần thiết cho tương lai của chúng ta, những quyết định về hòa bình và cho hòa bình, vì sẽ không có hòa bình nếu không có một nền giáo dục thích hợp cho các thế hệ trẻ. Những người trẻ tuổi ngày nay không thể được giáo dục đúng đắn trừ khi việc đào tạo mà họ nhận được phù hợp với bản tính con người là cởi mở và tương tác với người xung quanh.

Giáo dục thực sự trở thành sự khôn ngoan cho cuộc sống nếu nó có khả năng “đưa ra” được những gì là tốt nhất của những người nam nữ, trong sự tiếp xúc với Đấng siêu việt hóa họ và với thế giới xung quanh, nuôi dưỡng một ý thức cởi mở về bản sắc và không đóng kín chính mình. Sự khôn ngoan tìm kiếm tha nhân, vượt qua những cám dỗ có một thái độ khăng khăng và một tư duy hẹp hòi; nó cởi mở và chuyển động, nhưng đồng thời khiêm tốn và tìm kiếm; nó có khả năng đánh giá cao quá khứ và đặt quá khứ trong cuộc đối thoại với hiện tại, với một sự biện phân phù hợp. Sự khôn ngoan chuẩn bị một tương lai, trong đó người ta không cố áp đặt chương trình nghị sự của riêng mình, nhưng trái lại bao gồm những người khác như một phần không thể tách rời của chính họ. Sự khôn ngoan không ngừng tìm kiếm, ngay cả trong hiện tại, để xác định những cơ hội gặp gỡ và chia sẻ; và trong quá khứ, để học được rằng điều ác chỉ làm gia tăng thêm những tà ác, và bạo lực chỉ gây thêm càng nhiều bạo lực, trong một vòng xoáy mà kết cục là giam hãm tất cả mọi người. Sự khôn ngoan, khi chối bỏ sự gian dối và lạm dụng quyền lực, tập trung vào phẩm giá con người, một phẩm giá quý báu trong mắt Thiên Chúa, và vào một nền luân lý xứng đáng với con người, một nền luân lý không e ngại người khác và không hề sợ hãi khi sử dụng những phương tiện tri thức đã được Đấng Tạo Hóa ban cho chúng ta.1

Chính trong lĩnh vực đối thoại, đặc biệt là đối thoại liên tôn, chúng ta thường xuyên kêu gọi đồng hành cùng nhau, trong niềm xác tín rằng tương lai cũng phụ thuộc vào sự gặp gỡ của các tôn giáo và các nền văn hoá. Về vấn đề này, công việc của Ủy ban Đối thoại hỗn hợp giữa Hội đồng Giáo hoàng về đối thoại liên tôn và Ủy ban Đối thoại của Đại Học Al-Azhar cho chúng ta một ví dụ cụ thể và đáng khích lệ. Ba lĩnh vực cơ bản, nếu được liên kết với nhau, có thể hỗ trợ cho cuộc đối thoại này: đó là trách nhiệm tôn trọng bản sắc của chính mình và của người khác, lòng can đảm chấp nhận sự khác biệt và những ý định chân thành.

Chúng ta có trách nhiệm tôn trọng bản sắc của chính mình và của người khác bởi vì đối thoại đích thực không thể được xây dựng trên sự mơ hồ hoặc sẵn sàng hy sinh một số điều tốt đẹp để làm hài lòng người khác. Chúng ta cũng phải có can đảm chấp nhận sự khác biệt, bởi vì những người dị biệt về mặt văn hoá hay tôn giáo, không nên bị xem hoặc bị đối xử như những kẻ thù, mà phải được hoan nghênh như những người bạn đồng hành, với niềm xác tín chân thành rằng lợi ích của mỗi một người nằm trong lợi ích của tất cả. Chúng ta cũng phải có các ý định chân thành, bởi vì đối thoại, như là một biểu hiện đích thực của tính nhân bản, không phải là một chiến lược nhằm đạt được những mục tiêu cụ thể, nhưng là một con đường dẫn tới chân lý, đáng được thực hiện với lòng kiên nhẫn, ngõ hầu có thể biến sự cạnh tranh thành sự hợp tác với nhau.

Một nền giáo dục coi trọng sự cởi mở và tinh thần đối thoại chân thành với người khác, trong khi thừa nhận những quyền và tự do cơ bản của họ, đặc biệt là tự do tôn giáo, là cách tốt nhất để xây dựng tương lai cùng với nhau, và cùng nhau trở thành những người kiến tạo lòng tương kính. Ngược lại với sự gặp gỡ tương kính như thế, là sự xung đột tàn bạo. Để đối phó hiệu quả với sự tàn bạo của những người gây hận thù và bạo lực, chúng ta cần phải tháp tùng những người trẻ, giúp họ trên con đường trưởng thành và dạy họ phản ứng lại với thứ luận lý hung hăng của cái ác bằng cách kiên nhẫn làm việc cho sự phát triển của điều thiện. Bằng cách này, những người trẻ tuổi, như những cây được ươm trồng tốt đẹp, có thể bắt rễ sâu trong đất của lịch sử, và khi lớn lên trong sự hướng thiện cùng nhau, có thể hàng ngày biến không khí ô nhiễm của hận thù thành dưỡng khí của tình huynh đệ.

Đối diện với thách đố văn hóa to lớn này, một thách đố vừa khẩn cấp vừa thú vị, chúng ta, những Kitô hữu, những người Hồi giáo và tất cả các tín hữu, được kêu gọi đóng góp cụ thể: “Chúng ta sống dưới ánh mặt trời của một Thiên Chúa giầu lòng thương xót... vì thế, thật sự, chúng ta có thể gọi nhau là anh chị em... vì nếu không có Thiên Chúa, cuộc sống của con người sẽ giống như thiên đường mà không có ánh mặt trời”2. Xin cho mặt trời của một tình huynh đệ mới trong danh Thánh Chúa vươn lên trong vùng đất đầy nắng mặt trời này, có thể trở thành là rạng đông của một nền văn minh hòa bình và gặp gỡ. Xin thánh Phanxicô thành Assisi, người đã tới Ai Cập và gặp Quốc Vương Malik al Kamil, cách đây tám thế kỷ, cầu bầu cho ý định này.

Một vùng đất của các giao ước

Ở Ai Cập, không chỉ có mặt trời của sự khôn ngoan mọc lên, nhưng còn có cả những ánh qung chói lọi của các tôn giáo chiếu sáng trên vùng đất này. Ở đây, dưới nhiều thế kỷ, sự khác biệt tôn giáo đã hình thành “một hình thức làm giàu lẫn nhau trong việc phục vụ một cộng đồng quốc gia duy nhất”. 3 Các tôn giáo khác nhau gặp gỡ và nhiều nền văn hoá khác nhau pha trộn mà không bị nhầm lẫn, trong khi thừa nhận tầm quan trọng của việc cùng nhau làm việc cho thiện ích chung. Những “giao ước” như thế hiện nay là rất cần thiết. Ở đây tôi muốn đề cập đến một biểu tượng là “Núi Giao Ước” mọc lên trên mảnh đất này. Núi Sinai nhắc nhở chúng ta rằng các giao ước xác thực trên trái đất này không thể bỏ qua trời cao, rằng con người không thể gặp nhau trong hòa bình khi loại bỏ Thiên Chúa khỏi đường chân trời của mình, và cũng không thể leo lên núi để tự mình đạt đến Thiên Chúa (xem Xh 19:12 ).

Đây là một lời nhắc nhở hợp thời khi đối mặt với một nghịch lý nguy hiểm vào thời điểm hiện tại. Một mặt, tôn giáo thường có xu hướng bị đẩy vào bầu khí riêng tư, như thể nó không phải là một chiều kích thiết yếu của con người và xã hội. Mặt khác, bầu khí tôn giáo và chính trị lại thường bị lẫn lộn và không được phân biệt rõ ràng. Tôn giáo có nguy cơ bị quản lý như một sự vụ thế tục và bị cám dỗ bởi sự quyến rũ của các quyền lực thế gian, là những thế lực trong thực tế muốn khai thác tôn giáo. Thế giới của chúng ta đã chứng kiến sự toàn cầu hoá nhiều công cụ kỹ thuật hữu ích, nhưng cũng phải chứng kiến một sự toàn cầu hóa sự thờ ơ và lãnh đạm, và nó di chuyển với một tốc độ điên rồ rất khó để duy trì. Kết quả là, có một mối quan tâm mới về các câu hỏi lớn liên quan đến ý nghĩa của cuộc sống. Đây là những câu hỏi mà các tôn giáo đưa ra trước mắt, nhắc nhở chúng ta về nguồn gốc của mình và ơn gọi tối hậu của chúng ta. Chúng ta không được tạo thành để rồi dành hết năng lực của mình vào những điều không chắc chắn và chóng qua của thế giới này, nhưng để hướng tới Đấng Tuyệt đối là cùng đích tối hậu của chúng ta. Vì tất cả những lý do này, đặc biệt là ngày nay, tôn giáo không phải là một vấn đề nhưng là một phần của giải pháp: đó là chống lại sự cám dỗ giản lược cuộc sống thành một cuộc đời tầm thường và vô vị, trong đó mọi thứ bắt đầu và kết thúc ở đây dưới thế này, tôn giáo nhắc nhở chúng ta về sự cần thiết phải nâng cao tâm hồn chúng ta lên Đấng Tối Cao ngõ hầu học được cách xây dựng xã hội trần thế.

Trở lại với hình ảnh Núi Sinai, tôi muốn đề cập đến các điều răn đã được công bố ở đó, ngay cả trước khi chúng được chạm khắc trên các viên đá. [4] Ở trung tâm của “10 điều răn” này, là lời nhắc nhở được gửi đến mỗi cá nhân và mọi người ở mọi lứa tuổi: “Ngươi chớ giết người” (Ex 20:13). Thiên Chúa, Đấng yêu mến sự sống, không ngừng yêu thương con người, và vì thế Người khuyên chúng ta nên từ khước con đường bạo lực như là điều kiện cần thiết cho mọi “giao ước” trần thế. Trên tất cả và đặc biệt trong thời của chúng ta, các tôn giáo được kêu gọi tôn trọng mệnh lệnh này, bởi vì, trước tất cả ước vọng của chúng ta về Đấng Tuyệt đối, điều thiết yếu là chúng ta từ chối bất kỳ “sự tuyệt đối hóa” nào có thể biện minh cho bạo lực. Vì bạo lực là sự phủ nhận của mọi biểu hiện tôn giáo đích thực.

Do đó, trong tư cách là các nhà lãnh đạo tôn giáo, chúng ta được kêu gọi để vạch trần bạo lực núp dưới mặt nạ của sự thánh thiêng và dựa trên “sự tuyệt đối hóa” tính ích kỷ hơn là sự cởi mở thực sự đối với Đấng Tuyệt đối. Chúng ta có nghĩa vụ tố cáo những vi phạm nhân phẩm và nhân quyền, vạch trần những nỗ lực nhằm biện minh cho mọi hình thức hận thù nhân danh tôn giáo, và lên án những nỗ lực đó như những bức biếm hoạ bôi bác Thiên Chúa: Tên Ngài là Đấng Thánh, là Thiên Chúa của Hòa bình, Thiên Chúa của salaam.5 Vì thế hòa bình là điều thánh khiết và không có hành vi bạo lực nào có thể biện minh nhân danh Thiên Chúa, vì đó là sự xúc phạm đến Danh Người.

Cùng nhau, tại vùng đất này nơi trời và đất gặp nhau, vùng đất của các giao ước giữa các dân tộc và các tín hữu, chúng ta hãy nói lại một lần nữa một cách rõ ràng và kiên quyết tiếng nói “Không!” với mọi hình thức bạo lực, trả thù và oán ghét được thực hiện dưới danh nghĩa tôn giáo hay là nhân danh Chúa. Cùng nhau chúng ta hãy khẳng định sự bất tương hợp giữa bạo lực và đức tin, niềm tin và hận thù. Cùng nhau chúng ta hãy tuyên bố sự thánh thiêng của mỗi cuộc sống con người đối với mọi hình thức bạo lực, dù là bạo lực về mặt thể chất, xã hội, giáo dục hay tâm lý. Một niềm tin không phát sinh từ một trái tim chân thành và một tình yêu đích thực hướng về Thiên Chúa giầu lòng thương xót, chẳng qua chỉ là một cấu trúc tiện lợi cho xã hội, nó đã không có khả năng giải phóng con người thì chớ, lại còn nghiền nát con người. Chúng ta hãy cùng nhau nói: càng lớn lên trong tình yêu của Thiên Chúa, chúng ta càng lớn lên trong tình yêu với người lân cận của mình.

Tôn giáo, tuy nhiên, không chỉ nhằm vạch trần cái ác; tôn giáo có một ơn gọi nội tại là cổ vũ cho hòa bình, và ngày nay có lẽ là cần hơn bao giờ hết. 6. Chúng ta đừng đưa ra các hình thức đồng thuận hời hợt, 7 nhưng trái lại nhiệm vụ của chúng ta là hãy cầu nguyện cho nhau, cầu khẩn cùng Thiên Chúa ân ban bình an, và sự gặp gỡ nhau, dấn thân trong đối thoại và trong việc thúc đẩy sự hòa hợp trong tinh thần hợp tác và hữu nghị. Về phần chúng tôi, với tư cách là các Kitô hữu, “chúng tôi không thể cầu nguyện Thiên Chúa là Cha của tất cả mọi người nếu chúng tôi không đối xử với người khác bằng tình huynh đệ, vì tất cả mọi người đều được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa”. Hơn nữa, chúng tôi biết rằng, khi chúng tôi dự phần trong việc chống lại cái ác đang đe dọa một thế giới không còn là “một nơi của tình huynh đệ chân chính nữa”, Thiên Chúa bảo đảm với tất cả những ai tín thác vào tình yêu của Người rằng “con đường yêu thương mở ra trước con người và những nỗ lực thiết lập tình huynh đệ phổ quát sẽ không phải là vô ích” 9. Thay vào đó, nỗ lực đó rất quan trọng: sẽ chẳng có ích gì nếu chúng ta lên tiếng nói rồi lại tìm kiếm vũ khí để bảo vệ mình: điều cần thiết ngày nay là những người kiến tạo hòa bình chứ không phải là những kẻ gây ra xung đột; những lính cứu hỏa chứ không phải là những kẻ đốt nhà; các nhà giảng thuyết về hòa giải chứ không phải những kẻ xúi giục hủy diệt.

Thật buồn khi thấy rằng, những thực tại cụ thể trong cuộc sống của người dân đang ngày càng bị bỏ qua để phục vụ cho các mưu đồ gian trá, các hình thái kích động của chủ nghĩa mị dân đang gia tăng. Những điều này chắc chắn không giúp củng cố hòa bình và ổn định: không có thứ kích động bạo lực nào bảo đảm cho hòa bình và mọi hành động đơn phương không giúp thúc đẩy các tiến trình xây dựng và chia sẻ, nhưng trong thực tế lại là một món quà cho những kẻ ủng hộ chủ nghĩa cực đoan và bạo lực.

Để ngăn ngừa mâu thuẫn và xây dựng hòa bình, điều cần thiết là chúng ta không bỏ qua nỗ lực nào nhằm xóa bỏ hoàn cảnh đói nghèo và bóc lột trong đó chủ nghĩa cực đoan dễ dàng bắt rễ hơn, và ngăn chặn dòng chảy tiền bạc và vũ khí dành cho những kẻ gây ra bạo lực. Thậm chí còn triệt để hơn, chúng ta phải đặt một dấu chấm hết cho việc gia tăng vũ khí. Nếu vũ khí được sản xuất và bán ra, sớm muộn gì chúng sẽ được sử dụng. Chỉ bằng cách đưa ra ánh sáng ban ngày, các lèo lái tối tăm đang nuôi dưỡng ung thư chiến tranh, chúng ta mới có thể ngăn ngừa các nguyên nhân thực sự của nó. Các nhà lãnh đạo quốc gia, các tổ chức và giới truyền thông có nghĩa vụ phải thực hiện nhiệm vụ khẩn cấp và nghiêm trọng này. Cũng vậy, tất cả chúng ta tất cả phải đóng một vai trò dẫn đầu trong nền văn hoá. Mỗi người trong lãnh vực của mình, được ủy thách bởi Thiên Chúa, bởi lịch sử và bởi tương lai, để kích hoạt các tiến trình hòa bình, để tạo ra một cơ sở vững chắc cho các thỏa thuận giữa các dân tộc và các quốc gia. Tôi hy vọng đất nước Ai Cập cao quý và đáng yêu này, với sự giúp đỡ của Thiên Chúa, có thể tiếp tục đáp lại lời gọi mà nó đã nhận được như một vùng đất của nền văn minh và giao ước, và do đó góp phần vào việc phát triển các tiến trình hòa bình cho người dân thân yêu của mình và cho toàn bộ khu vực của Trung Đông.

As-salamu alaykum! Cầu mong hòa bình ở cùng các bạn!

J.B. Đặng Minh An
Nguồn: http://vietcatholic.net/News/Html/221291.htm

Hội đồng Giám mục Việt Nam kết thúc Hội nghị thường niên kỳ I/2017



WHĐ (29.04.2017) – Trưa thứ Sáu 28.4, Hội đồng Giám mục Việt Nam đã kết thúc Hội nghị thường niên kỳ I năm 2017 với giờ chầu Thánh Thể tại nhà nguyện ấm cúng của Trung tâm Mục vụ giáo phận Nha Trang. Thờ lạy và tạ ơn Chúa là những tâm tình của các Đức cha tham dự những ngày qua, Chúa Thánh Thần đã dẫn dắt các ngài trong tình hiệp nhất huynh đệ để có những chọn lựa hành động mục vụ chung.

Đức cha Giuse Đặng Đức Ngân, Giám mục giáo phận Đà Nẵng, được bầu làm Chủ tịch Uỷ ban Văn hoá, thay thế Đức cha Giuse Vũ Duy Thống, Giám mục giáo phận Phan Thiết, mới qua đời. Để chuẩn bị cho Thượng Hội đồng Giám mục Thế giới 2018, HĐGM đã cử 2 Đức cha tham dự chính thức là Đức cha Phêrô Nguyễn Văn Viên và Đức cha Giuse Đỗ Mạnh Hùng, và một vị dự khuyết là Đức cha Giuse Vũ Văn Thiên.

HĐGM đã biểu quyết thông qua văn bản chính thức “Hướng dẫn Mục vụ Thánh nhạc”, cũng như biểu quyết cho phép áp dụng thử nghiệm trong ba năm bản “Hướng dẫn tổng quát việc dạy Giáo lý tại Việt Nam”. 

Ngoài ra, các Đức cha Chủ tịch các Uỷ ban khác trực thuộc HĐGM còn chia sẻ và được góp ý cùng quyết định nhiều điều khác nữa.

Hội nghị thường niên kỳ II/2017 được ấn định sẽ họp tại Trung tâm Mục vụ giáo phận Thanh Hoá, từ ngày 9 đến 13 tháng Mười 2017.
***
HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM

Hội Nghị Thường Niên Kỳ I/2017 (24  28/4/2017)
B I Ê N   B Ả N
Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã họp Hội nghị thường niên kỳ I/2017 tại Toà Giám mục Nha Trang, từ chiều thứ Hai ngày 24/4/2017 đến trưa thứ Sáu ngày 28/4/2017, với sự tham dự đông đủ tất cả các thành viên của Hội Đồng Giám Mục.
Hội Đồng Giám Mục hân hoan chào đón Đức Tổng Giám mục Leopoldo Girelli, đại diện Đức Thánh Cha tại Việt Nam, và lắng nghe những chia sẻ, ưu tư của ngài về Giáo hội tại Việt Nam, đặc biệt về hoạt động bác ái. Theo ngài, các hoạt động bác ái xã hội là những chứng tá sống động của Tin Mừng trên quê hương Việt Nam.
Hội Đồng Giám Mục chúc mừng Đức cha Giuse Nguyễn Chí Linh, tân Tổng Giám mục Tổng giáo phận Huế và Đức cha Tôma Nguyễn Văn Trâm, giám quản giáo phận Phan Thiết; chào đón Đức cha tân cử Đaminh Nguyễn Văn Mạnh vừa được Đức Thánh Cha Phanxicô bổ nhiệm làm giám mục phó giáo phận Đà Lạt; đồng thời chúc mừng giáo phận Nha Trang đang hân hoan mừng Năm Thánh kỷ niệm 60 năm thành lập giáo phận.
Hội Đồng Giám Mục cũng tưởng nhớ và tri ân Đức cha Phaolô Nguyễn Văn Hoà, nguyên Chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, nguyên giám mục giáo phận Nha Trang, và Đức cha Giuse Vũ Duy Thống, giám mục giáo phận Phan Thiết, đã về Nhà Cha trong thời gian vừa qua.
Trong Hội nghị lần này, Hội Đồng Giám Mục:
1. Bầu Đức cha Giuse Đặng Đức Ngân làm Chủ tịch Uỷ ban Văn hóa thay Đức cha Giuse Vũ Duy Thống.
2. Phê chuẩn bản “Hướng dẫn Mục vụ Thánh nhạc” của Uỷ ban Thánh nhạc.
3. Cho phép thử nghiệm 3 năm bản “Hướng dẫn tổng quát việc dạy giáo lý tại Việt Nam” của Uỷ ban Giáo lý Đức tin.
4. Nghe phúc trình của các Uỷ ban:
– Uỷ ban Kinh Thánh trình bày Hội nghị của Liên hiệp Kinh Thánh Đông Nam Á (CBF-SEA) sẽ được tổ chức tại Toà Giám mục Nha Trang, từ ngày 17 đến 23 tháng 7 năm 2017;
– Uỷ ban Mục vụ Di dân trình bày bản dự thảo “Hướng dẫn Mục vụ Di dân”;
– Uỷ ban Mục vụ Gia đình trình bày các thủ tục liên quan tới hôn nhân Công giáo tại Việt Nam;
– Uỷ ban Giáo dục Công giáo trình bày về hoạt động của Học viện Công Giáo, chương trình thi tuyển và lễ khai giảng vào ngày 14/9 sắp tới;
– Uỷ ban Tu sĩ, Uỷ ban Phụng tự, Uỷ ban Giáo dân, Uỷ ban Loan báo Tin Mừng cũng trình bày những vấn đề liên quan.
Hội Đồng Giám Mục ấn định Hội nghị thường niên kỳ II/2017 sẽ được tổ chức tại Toà Giám mục Thanh Hóa, từ ngày 09/10/2017 đến 13/10/2017.


Toà Giám mục Nha Trang, ngày 28/4/2017

Tổng thư ký
Hội Đồng Giám Mục Việt Nam

(đã ký)

+ Phêrô Nguyễn Văn Khảm
Giám mục giáo phận Mỹ Tho

Nguồn: http://hdgmvietnam.org/hoi-dong-giam-muc-viet-nam-ket-thuc-hoi-nghi-thuong-nien-ky-i2017/8781.63.8.aspx

Quy định về Thủ tục Hôn Phối

Một đôi bạn trẻ làm lễ cưới tại nhà thờ Đức Bà Saigon
WGPSG -- Trước khi bước vào tình yêu hôn nhân và cử hành bí tích Hôn Phối, người trẻ cần phải thực hiện những thủ tục nào?
Dưới đây là những thủ tục hôn phối do Toà Tổng Giám mục Saigon quy định.
***
1.     Chuẩn bị trước khi đăng ký Hôn phối
1.1.   Giáo lý Hôn nhân: đôi bạn phải học tối thiểu 3 tháng. Học càng sớm càng tốt để xuất trình chứng chỉ khi đăng ký Hôn phối, hoặc đăng ký Hôn phối rồi tiếp tục học, miễn sao trước ngày cưới phải có chứng chỉ.
1.2.   Hồ sơ hôn phối cần chuẩn bị:
a.    Giấy xác nhận và giới thiệu của Trưởng khu.
b.    Giấy giới thiệu của cha xứ bên kia.
c.     Chứng chỉ Rửa tội mới cấp không quá 6 tháng (có ghi chú quan trọng: tình trạng độc thân).
d.    Chứng chỉ Thêm sức (nếu chưa, thì kiếm nơi học khóa căn bản để kịp chịu Thêm sức).
e.    Chứng chỉ Giáo lý Hôn nhân (bản chính kèm bản sao).
f.      Sổ Gia đình Công giáo và Tờ khai Gia đình Công giáo của giáo xứ đang thụ lý hồ sơ.
g.    Giấy Chứng nhận Kết hôn (bản chính kèm bản sao).
1.3.   Sổ Gia đình Công giáo: mua mới.
2.     Đăng ký Hôn phối
2.1.   Đăng ký Hôn phối bên đàng trai hay đàng gái đều được cả. Bên nào nhận làm lễ cưới thì đăng ký bên ấy. Người bán cư trú cũng được đăng ký Hôn phối.
2.2.   Trình diện: ít nhất 3 tháng trước ngày dự định xin lễ cưới, đôi bạn cùng cha hoặc mẹ đến trình diện nơi cha xứ thụ lý Hồ sơ Hôn phối. Nếu không còn cha mẹ, thì người thân nhất đi thay: anh chị, chú bác, cô dì…
2.3.   Xuất trình Hồ sơ Hôn phối như mục 1.2 ghi trên.
2.4.   Đôi bạn tự viết Tờ khai Hôn phối, sau đó từng người gặp riêng cha xứ để trình bày khúc mắc nếu có.
2.5.   Bạn ở giáo xứ bên kia: viết Tờ khai Hôn phối để cha xứ chứng thực (như ở Giáo phận Xuân Lộc, Bà Rịa). rồi đem Tờ khai này cùng với giấy giới thiệu của cha xứ đưa sang cho cha xứ bên này.
2.6.   Cha xứ và đôi bạn xác định thời gian, địa điểm xin lễ cưới (phối hợp giữa ngày lễ cưới và ngày tiệc cưới).
2.7.   Cha xứ lập Tờ rao Hôn phối, gửi tờ rao cho cha xứ bên kia (sau 3 lần rao, đến xin kết quả đem về), dù bên kia là tân tòng, cha xứ cũng phải nhận rao (khu xóm có thể biết tình trạng để trình báo). Nơi đâu đôi bạn cư ngụ quá 6 tháng (lúc đó: nam trên 20 tuổi, nữ trên 18 tuổi) thì phải gửi đến Tờ rao Hôn phối.
2.8.   Trường hợp xin cử hành lễ cưới ở nơi khác, thì cha xứ sẽ gửi giấy giới thiệu kèm với Tờ rao Hôn phối.
2.9.   Nếu hồ sơ chưa đủ (vd: đến ngày cưới mới có chứng chỉ Giáo lý Hôn nhân, mới có giấy Chứng nhận Kết hôn), thì cứ viết Tờ khai Hôn phối và xin đăng ký ngày giờ lễ cưới sẵn (trước 3 tháng), sau đó ít nhất 3 tuần trước ngày cưới phải đến đăng ký chính thức (bổ túc giấy tờ), để kịp rao 3 lần.
3.     Chuẩn bị lễ cưới
3.1.   Tập Nghi thức Hôn phối vài ngày trước lễ cưới, đem theo Sổ Gia đình Công giáo mới: ghi đầy đủ lý lịch.
3.2.   Nộp lại Tờ rao Hôn phối từ xứ bên kia.
3.3.   Bổ túc giấy tờ, nếu còn thiếu.
3.4.   Liên hệ với nhà thờ v/v ca đoàn, hoa, nến, trang trí…
3.5.   Xưng tội, nếu đã quá 1 tháng - nên thưa là chuẩn bị lễ cưới, để cha giải tội có lời khuyên thích hợp.
4.     Hôn phối với ngoại kiều
4.1.   Học Giáo lý Hôn nhân như mục 1.1 nêu trên.
4.2.   Hồ sơ Hôn phối như mục 1.2 c-d-e-f nêu trên.
4.3.   Giấy Chứng nhận Kết hôn do Sở Tư pháp cấp, không bắt buộc nộp Visa.
4.4.   Giấy giới thiệu do cha xứ của đương sự ở ngoại quốc cấp kèm với chứng chỉ Giáo lý Hôn nhân.
4.5.   Cha chánh xứ có thể cho rao Hôn phối trước, dù một trong hai người chưa có mặt ở Việt Nam; nhưng không được nhận xác định ngày cử hành Hôn phối, nếu chưa đầy đủ giấy tờ cần thiết.
5.     Chuẩn Hôn phối khác đạo
5.1.   Đôi bạn đều phải học Giáo lý Hôn nhân như mục 1.1 nêu trên.
5.2.   Hồ sơ Hôn phối của người Công giáo như mục 1.2.
5.3.   Đôi bạn viết Đơn xin Phép chuẩn Hôn phối khác đạo để cha xứ xác nhận và đệ trình Tòa TGM chấp thuận.
5.4.   Nghi thức Hôn phối được cử hành trong nhà thờ (hoặc nơi thích hợp) ngoài Thánh lễ.
5.5.   Không nhận thủ tục Phép chuẩn Hôn phối khác đạo cho những người ở xa đến.
5.6.   Không nhận thủ tục Phép chuẩn Hôn phối khác đạo với trường hợp ngoại kiều. Tuy nhiên, Tòa TGM có thể ban phép chuẩn cho trường hợp riêng: nếu có một Linh mục ở ngoại quốc nơi đôi bạn cư ngụ viết giấy xác nhận bảo đảm hướng dẫn đời sống đức tin cho bạn Công giáo.
6.     Ghi chú
6.1.   Dự tòng: nên rửa tội trước ngày cưới khoảng từ 1-3 tháng, kèm giấy Chứng nhận Kết hôn (bảo đảm lấy nhau).
6.2.   Tân tòng: Sau khi được rửa tội phải gửi ngay Chứng chỉ Rửa tội cho cha xứ nơi mình cư trú để được nhập xứ: từ nơi đây giới thiệu Hôn phối hoặc mở Hồ sơ Hôn phối, chứ không phải tại nhà thờ đã cho rửa tội.
6.3.   Trong trường hợp chuẩn Hôn phối khác đạo, cha xứ bên ngoại cũng rao Hôn phối (có khi khu xóm biết hoàn cảnh). Do thuận lợi, cha xứ bên ngoại cũng được thụ lý Hồ sơ Hôn phối của Phép chuẩn Hôn phối khác đạo.
                      Tòa Giám Mục Saigon, ngày 10-8-2015
                                                  Phê chuẩn,
                            
Đức TGM Phaolô Bùi Văn Đọc (đã ký)
Nguồn: http://tgpsaigon.net/baiviet-tintuc/20170426/38470

Cuộc chiến chống bệnh ung thư và lòng yêu mến Chúa của Matteo Farina

Matteo Farina sinh tại Avellino ngày 19 tháng 9 năm 1990, nhưng sau đó cậu theo gia đình đến sinh sống ở Brindisi. Ngày 24 tháng 4 năm 2009, sau 6 năm chiến đấu chống lại những đau đớn do ung thư não gây nên, với sức mạnh tinh thần và đời sống thiêng liêng sâu sắc, Matteo đã ra đi về với Chúa khi tuổi đời còn rất trẻ, 19 tuổi, và để lại nỗi nhớ không thể quên nơi người dân Brindisi. Ngày 19 tháng 9 năm 2016, đúng ngày sinh nhật của Matteo, cậu được Giáo hội công nhận là Tôi tớ Chúa và tiến trình điều tra phong chân phước và phong thánh cho cậu bắt đầu ở cấp giáo phận. Những tháng tiếp sau đó, các chứng từ về đời sống thánh thiện và đạo đức của Matteo được gửi về Tòa án giáo phận. Matteo được nhìn nhận là một chàng trai luôn quảng đại và hy sinh cho người xung quanh, dấn thân hàng ngày chống lại bất công xã hội và kinh tế, hoặc chống lại các chuyện hoang đường sai lạc thường đưa các bạn của cậu xa rời những giá trị đích thật của cuộc sống.

Ngày 24 tháng 4 năm 2017, hồ sơ phong chân phước và phong thánh cho vị Tôi tớ Chúa, Matteo Farina, đã kết thúc ở cấp giáo phận. Các chứng từ xác nhận Matteo là “một chàng trai đạo đức”. Đối với tất cả mọi người, Matteo là chàng trai vàng ngọc, với sự nhiệt tình làn truyền, ước muốn mạnh mẽ sống, mang niềm vui và sự an bình, là dụng cụ của Thiên chúa giữa những người trẻ. Những người cùng thời với Matteo gọi cậu là “người đạo đức”.

Những triệu chứng đầu tiên của căn bệnh trầm trọng bắt đầu xuất hiện vào tháng 9 năm 2003 xuất phát từ khối u não. Tháng 1 năm 2005, Matteo được phẫu thuật lần thứ nhất. Hai năm sau cuộc phẫu thuật lần thứ hai, Matteo phải chịu nhiều cuộc phẫu thuật khác vì căn bệnh ung thư của cậu lại tái phát. Trong những lần chữa trị khác nhau tại nhà thương cũng như các phòng khám, Matteo hầu như quên đi bản thân mình; cậu cầu nguyện cho các bệnh nhân khác, an ủi họ và mang đến cho họ sự dịu dàng ngọt ngào của tình yêu Chúa. Các thử thách đau đớn về thể lý và đau khổ chưa bao giờ làm lu mờ niềm vui sống của Matteo. Câu chuyện tình với Serena, người đã gần bên Matteo trong những năm cuối đời cậu, là bông hoa hiếm hoi tươi nở ngay trên mảnh đất khô cằn nhất. Bà Paola, mẹ của Matteo đã khẳng định: “Matteo không bao giờ làm cho căn bệnh của mình trở nên nặng nề”. Chính Matteo đã mang lại cho mẹ của mình sức mạnh để chịu đựng những giờ phút khó khăn nhất. Matteo nói với mẹ: ‘Mẹ đừng lo lắng, bởi vì mẹ biết rõ tại sao Chúa chọn chúng ta.’ Căn bệnh giống như một thử thách để dâng cho Chúa.

Vị cáo thỉnh viên án phong chân phước cho Matteo, cô Francesca Consolini cũng chia sẻ: “lúc mà khối u mới xuất hiện, Matteo trở nên mạnh mẽ hơn tất cả. Chính cậu mang lại sự can đảm và truyền sự thanh thản cho các người thân trong gia đình. Cậu không bao giờ cảm thấy mình là một người bệnh. Matteo tiếp tục học tập và đạt những kết quả tốt nhất, tiếp tục hoạch định một tương lai với hôn thê của mình, tiếp tục chứng tỏ một đức tin vững mạnh bằng đời sống và qua nhiều điều cậu viết và một sự phó thác hoàn toàn theo ý Chúa: “Hãy nằm gọn cách khiêm tốn trong vòng tay của Thiên Chúa và để cho mình ra đi.”

Salvatore Giuliano, giám học của ngôi trường Itis Majorana, nơi Matteo theo học, kể với báo Repubblica: “Trong những tháng cuối của Matteo, nhà trường đã tổ chức một buổi tiệc nhân dịp Matteo trở về từ Hannover, lúc ấy Matteo vừa trải qua ca phẫu thuật cuối và ngồi trên xe lăn. Tất cả chúng tôi cùng vui chơi với nhau. Vào cuối buổi tiệc, tôi đi cùng với Matteo ra ngoài và chúng tôi ở riêng với nhau. Tôi biết là, tôi cảm thấy là tôi sẽ không gặp lại cậu ta nữa. Cậu ta nói với tôi: Thưa thầy, thầy sẽ làm những điều tuyệt vời. Hãy tiến lên và đừng bao giờ sợ hãi.” Cậu ta đã nói tiên tri.”

Maria Bafaro, chủ tịch hội tông đồ cầu nguyện đã chia sẻ cách cảm động: “Tôi nghĩ rằng ý nghĩa của sứ điệp mạnh mẽ rõ ràng mà Matteo để lại cho những người trẻ hôm nay là có thể dung hòa việc là người trẻ với việc là Kitô hữu thực hành và từ đó được hạnh phúc. Sứ điệp này được thể hiện trong các lời của cha Piô nói với Matteo trong một giấc mơ khi cậu 9 tuổi: “Nếu con hiểu được rằng người nào không có tội lỗi thì hạnh phúc, con phải làm cho những người khác hiểu, để chúng ta có thể cùng nhau bước đi, hạnh phúc, trong nước trời.” (Aleteia.it 12/04/2017)

Hồng Thủy
Nguồn: http://vi.radiovaticana.va/news/2017/04/27/cu%E1%BB%99c_chi%E1%BA%BFn_ch%E1%BB%91ng_b%E1%BB%87nh_ung_th%C6%B0_v%C3%A0_l%C3%B2ng_y%C3%AAu_m%E1%BA%BFn_ch%C3%BAa_c%E1%BB%A7a_matteo_farina/1308454

Thứ Năm, 27 tháng 4, 2017

Uỷ ban Thánh Nhạc: Thư mời tham dự Hội thảo Thánh nhạc Toàn quốc lần thứ 40

Nguồn: http://www.tonggiaophansaigon.com/baiviet-tintuc/20170413/38279

Hội nghị thường niên kỳ I/2017 Hội đồng Giám mục Việt Nam (24 – 28/4/2017)





WHĐ (26.04.2017) – Từ chiều thứ Hai 24-04, các Đức giám mục của 26 giáo phận, trong đó có 24 giám mục chính toà (2 vị kiêm giám quản tông toà), 2 giám mục phó, 5 giám mục phụ tá, đã về tham dự Hội nghị thường niên kỳ I năm 2017 Hội đồng Giám mục Việt Nam (HĐGM), tại Trung tâm Mục vụ giáo phận Nha Trang, số 22 Trần Phú, Thành phố Nha Trang. Ngay trước giờ cơm chiều, đại diện các thành phần Dân Chúa giáo phận Nha Trang đã đến chào trang trọng các Đức cha về dự Hội nghị.

Sáng thứ Ba 25-04, Thánh lễ khai mạc đơn sơ lúc 5g30 do Đức Tổng giám mục Giuse Nguyễn Chí Linh, Chủ tịch HĐGM, chủ tế. Thánh lễ cử hành mừng kính thánh Marcô Tông đồ, cầu nguyện xin Chúa Thánh Thần ban ơn bình an và khôn ngoan cho Hội nghị, tạ ơn Thiên Chúa trong tâm tình hiệp thông với giáo phận Nha Trang đang sống Năm thánh kỷ niệm 60 năm thành lập giáo phận, kính nhớ Đức cha Phaolô nguyên giám mục Nha Trang và nguyên chủ tịch HĐGM cùng Đức cha Giuse giáo phận Phan Thiết mới qua đời trong hai tháng qua.

Phiên họp đầu tiên bắt đầu lúc 8g30, với sự hiện diện của Đức Tổng giám mục Leoplodo Girelli đại diện Toà Thánh tại Việt Nam và 31 giám mục cùng với các linh mục thư ký, trong tâm tình tạ ơn với giáo phận Nha Trang đang mừng Năm thánh, và giáo phận Đà lạt có tân giám mục phó, đồng thời tiếc thương tưởng nhớ hai Đức cha mới qua đời, Đức Tổng giám mục Giuse Chủ tịch HĐGM chào mừng các Đức cha tham dự và tuyên bố khai mạc Hội nghị.

Đức cha Tổng thư ký Phêrô Nguyễn Văn Khảm giới thiệu sơ lược một vài thay đổi về cách điều hành các phiên họp do Ban Thường vụ mới, và nhắc qua chương trình nghị sự gồm chủ yếu là báo cáo và chia sẻ của một số Uỷ ban trực thuộc HĐGM.

Tiếp theo là lời chia sẻ của Đức Tổng giám mục Girelli. Ngài cám ơn Đức cha chủ nhà đã tiếp đón ân cần và chuyển lời chào với tâm tình quý mến và khích lệ của Đức Thánh Cha Phanxicô. Sau khi thông tin một vài việc của các Bộ thuộc Toà Thánh, Đức Tổng giám mục Girelli chia sẻ công việc của ngài, vị đại diện Toà Thánh không thường trú tại Việt Nam, trong thời gian qua, chủ yếu về mục vụ. Ngài cổ võ việc bác ái xã hội của Giáo hội Việt Nam, hiện diện qua mạng lưới Caritas trên toàn quốc, như là một hành động loan báo Tin Mừng bằng chứng từ âm thầm mà thuyết phục hơn là bằng lời nói và hoạt động ầm ĩ. Để yêu mến người ta cần phải biết, cho nên đi thăm viếng và chia sẻ, đặc biệt những người nghèo khổ, bị bỏ rơi, là nẻo đường đi ra vùng biên để loan báo Tin Mừng cách hiệu quả.

Thời gian còn lại trong ngày, các Đức cha chủ tịch các Uỷ ban thông tin, báo cáo các sinh hoạt thời gian qua. Ủy ban Kinh thánh thông báo và kính mời các Đức cha tham dự Hội nghị của Liên hiệp Kinh thánh Đông Nam Á (CBF-SEA) từ 17 đến 23/07/2017 tại Nha Trang. Ủy ban Giáo lý Đức tin giới thiệu và xin HĐGM biểu quyết bản Hướng Dẫn Tổng Quát việc Dạy Giáo lý tại Việt Nam. Ủy ban Phụng tự trình bày những phần việc đã làm cho tới nay và dự định trong tương lai. Ủy ban Thánh nhạc trình bày và xin phê chuẩn tập Hướng dẫn mục vụ thánh nhạc, cũng như Uỷ ban Tu sĩ báo cáo tình hình hiện nay liên quan đến một vài dòng tu mới.

Buổi tối, sau giờ chầu Thánh Thể và Kinh tối, các Đức cha họp nhau để chia sẻ theo giáo tỉnh. 



Văn phòng HĐGMVN
Nguồn: http://hdgmvietnam.org/hoi-nghi-thuong-nien-ky-i2017-hoi-dong-giam-muc-viet-nam/8771.63.8.aspx

Nhận định ơn gọi tu trì

Linh Mục Tôma Vũ Quang Trung, S.J
(Bài thuyết trình tại Đại hội tu sĩ toàn quốc lần II, 2008)
Dẫn nhập
Giáo Hội Việt Nam hiện nay là một trong số các Giáo Hội tại Châu Á đang có nhiều ơn gọi linh mục, tu sĩ. Nhiều bạn trẻ đang tiếp tục tìm đến các chủng viện, các dòng tu, đan viện, tu hội để xin được tìm hiểu ơn gọi tu trì.
Là những người được trao trách nhiệm nhận các em vào đời sống thánh hiến, chúng ta thường tự hỏi khi tiếp xúc với các em đến xin gia nhập cộng đoàn để sống đời tu trì: Động lực nào đã thúc đẩy bạn trẻ này đến đây để xin tìm hiểu và gia nhập chủng viện hoặc cộng đoàn? Đây là một câu hỏi không dễ có câu trả lời chính xác chỉ sau một vài ngày tĩnh tâm hoặc một vài tháng tìm hiểu!
Ơn gọi trước hết là một mầu nhiệm. Chúa gọi những ai Người muốn (x. Mc 3,13). Nhiệm vụ chúng ta là giúp các em khám phá ra tiếng Chúa gọi và đáp trả. Điều này diễn ra trong tiến trình nhận định ơn gọi. Tiến trình này lâu hay mau tuỳ thuộc vào việc nhận định các yếu tố liên hệ cho thấy có thể xác quyết đây là một ơn gọi thực sự.
Bài chia sẻ này xin trình bày về việc nhận định một ơn gọi, qua việc chú trọng đến việc khảo sát các động lực thúc đẩy một người trẻ đến xin gia nhập chủng viện, các dòng tu, đan viện, tu hội để trở nên các linh mục, tu sĩ.
I. CÁC ĐỘNG LỰC Ý THỨC VÀ VÔ THỨC THÚC ĐẨY ƠN GỌI
Thế nào là động lực thúc đẩy ơn gọi? Đâu là những yếu tố can dự vào các động lực này? Một cách chung, động lực thường được hiểu như một ước muốn, một khao khát thực hiện một dự phóng, một mục tiêu nào đó của cuộc sống. Động lực này có những yếu tố bên trong và những yếu tố bên ngoài. Các yếu tố bên trong nằm ở tầng sâu thẳm của nội tâm mỗi người. Nó được diễn tả qua các ước muốn hoặc những sức mạnh lôi cuốn về một giá trị tinh thần hoặc thiêng liêng nào đó.
Trong các động lực thúc đẩy một người tìm đến một hướng sống hay một mục tiêu cho cuộc đời, cần lưu ý rằng, con người nào cũng đều có một phần tự do và một phần khác không hoàn toàn tự do. Vì vậy, những quyết định chọn lựa trong cuộc sống của mỗi người luôn chịu ảnh hưởng của mức độ tự do và không tự do của chính mình. Khi nhìn về đời sống linh mục, một chủng sinh có thể cảm thấy được lôi cuốn bởi một hình ảnh thật đẹp của một nhà truyền giáo đang vượt qua những thách đố và nguy hiểm để loan báo Tin Mừng cho các dân tộc đang sống nơi những vùng đất xa xôi, đầy gian nan, trắc trở. Một thiếu nữ có thể được đánh động bởi hình ảnh một nữ tu đang quên mình chăm sóc cho những trẻ em khuyết tật đáng thương hoặc các bệnh nhân AIDS giai đoạn cuối bị người thân bỏ rơi để đi đến quyến định chọn đời sống tu dòng. Trong sức hấp dẫn đầy lôi cuốn của những hình ảnh cao đẹp này, các bạn trẻ có thể nhận biết các động lực đang thúc đẩy trong lòng mà mình ý thức. Tuy nhiên, họ lại không thể biết đến những sức mạnh thôi thúc tiềm ẩn bên dưới nằm trong tầng sâu của vô thức. Chính những sức mạnh này ngấm ngầm chi phối cách mạnh mẽ quyết định chọn lựa hướng đi của cuộc sống mà họ không hề ý thức.
II. NHẬN ĐỊNH VỀ CÁC ĐỘNG LỰC ƠN GỌI
Các nghiên cứu cho thấy rằng, trên bình diện ý thức, một bạn trẻ ước muốn trở nên linh mục hay tu sĩ thường bị lôi cuốn bởi lòng khao khát đi theo Chúa Giêsu qua việc dâng hiến đời mình để phục vụ tha nhân. Có bạn nói mình muốn đi tu để có thời giờ cầu nguyện và tìm sự bình an trong tâm hồn trong khung cảnh tĩnh lặng của đời chiêm niệm. Có những bạn khác khẳng định mạnh mẽ ước muốn trở nên một vị thánh. Lại không thiếu các bạn trẻ nghĩ rằng, nếu mình vào được nhà dòng, mình sẽ có cơ hội học tập tốt hơn, có thời giờ cầu nguyện nhiều hơn cho những người thân thuộc. Và biết đâu, lại chẳng có cơ hội được đi đây đi đó ra nước ngoài!
Tuy nhiên, các bạn trẻ lại ít biết rằng, bên cạnh những giá trị cao đẹp mà họ ao ước theo đuổi để thực hiện thì nơi thẳm sâu của tầng vô thức, có những sức mạnh khác thôi thúc họ chọn lựa đời tu không mấy phù hợp với các giá trị Tin Mừng, thậm chí hoàn toàn lệch lạc! Họ tìm kiếm để bù đắp một thiếu thốn sâu thẳm trong cuộc sống gia đình thời thơ ấu. Đời sống tu trì lúc này trở thành một môi trường thuận tiện có thể giúp họ thoả mãn những nhu cầu căn bản này.
Một cậu bé từ nhỏ đã luôn nghe mẹ nói: “Mẹ mong muốn con mai kia làm linh mục giống như bác con”. Ngày này qua tháng nọ, cậu bé được thấm dần ước mơ của mẹ cậu là cậu sẽ trở thành một linh mục, giống như bác cậu. Cậu vẫn hết lòng ngưỡng mộ bác cậu trong những lần bác có dịp về thăm mẹ và dâng lễ ngoài nhà thờ giáo xứ. Nghĩ về tương lai, nếu cậu làm linh mục giống bác cậu, mọi người dân trong làng sẽ kính trọng cậu. Mẹ cậu sẽ được mọi người xưng tụng là “bà cố”. Gia đình cậu sẽ được danh giá giữa xóm làng! Hướng đi tương lai của cậu như đã được xác định từ lúc cậu chưa đủ khả năng để có một quyết định chín chắn của một người trưởng thành!
Một cô bé nhà nghèo, vẫn phải đầu tắt mặt tối phụ việc với mẹ để lo kế sinh nhai cho gia đình, mà hoàn cảnh vẫn bữa đói bữa no. Nhờ các dì trong một nhà dòng gần đó giúp đỡ, cô bé mới có điều kiện đến trường. Một ngày kia, cô được mẹ gửi vào ở trong nhà nội trú của các dì. Ngày qua tháng lại, cô bé quen biết các dì hơn và sinh lòng cảm mến. Cô mong được sống như các dì mà không hề biết rằng mong ước tốt lành của cô chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của ước muốn thoát khỏi cảnh nghèo đói của gia đình, và hơn thế nữa, như một cách để trả ơn sự giúp đỡ của các dì.
Hai ví dụ trên đây cho chúng ta thấy một ơn gọi hướng đến đời sống tu trì luôn chịu ảnh hưởng bởi những động lực ý thức pha lẫn với những động lực vô thức.
Ơn gọi là tiếng gọi mầu nhiệm của Thiên Chúa dành riêng cho một người được kêu gọi và tuyển chọn cho một sứ mạng. Ngài thường dùng một số những dấu chỉ tự nhiên để lôi kéo con người đến ơn gọi này. Hai ví dụ trên đây còn giúp chúng ta hiểu được những động lực có thể thôi thúc một bạn trẻ dấn thân vào đời sống tu trì.  Đây là những dấu chỉ giúp chúng ta nhận định về ơn gọi của một bạn trẻ. Những dấu chỉ này vừa là những yếu tố bên trong, vừa là những yếu tố bên ngoài.
2.1 Các yếu tố bên trong
Khi kêu gọi ai, Thiên Chúa đặt trong lòng họ một ước ao sâu thẳm hướng họ về đời sống tu trì để trở nên linh mục, tu sĩ. Tuy nhiên, ước muốn vẫn chưa đủ. Một người có thể ước muốn bước vào đời tu với nhiều lý do khác nhau. Vấn đề là phải có động lực ơn gọi đúng đắn và trong sáng. Chính tại điểm này mà chúng ta chạm đến mầu nhiệm con người với tất cả sự phức tạp của đời sống tâm linh, nơi có sự tương tác qua lại giữa những nhu cầu vô thức và ý thức. Sự tương tác này gây ảnh hưởng lớn đến hệ thống các giá trị của một người và ảnh hưởng trên các động lực thôi thúc họ tìm đến ơn gọi. Một bạn trẻ bước vào đời tu có thể vừa do các nhu cầu, vừa do các giá trị mình theo đuổi. Vì vậy, các yếu tố bên trong của một ơn gọi có liên hệ trực tiếp đến các động lực ý thức và các động lực vô thức.
2.1.1 Các động lực ý thức
Các động lực ý thức là sự hiểu biết trực tiếp về chính mình. Các động lực này, dù chính đáng hay không, cũng vẫn dễ dàng nhận biết. Giáo Hội luôn mong chờ nơi các ứng sinh tìm đến ơn gọi với các giá trị tích cực. Một bạn trẻ có thể trả lời về lý do thôi thúc mình đi tu (1) vì mình muốn phụng sự Chúa, (2) vì mình muốn hiểu biết và yêu mến Chúa hơn, (3) vì mình muốn làm cho Nước Chúa được mở rộng, (4) vì mình muốn sống Tin Mừng sung mãn và triệt để hơn, (5) vì mình muốn cộng tác với Chúa để xây dựng thế giới này tốt đẹp hơn, (6) vì mình muốn chia sẻ niềm vui và hạnh phúc mình đang có cho người khác. Đó là những giá trị mà các bạn trẻ nhắm đến khi muốn dấn thân vào đời sống tu trì. Các động lực ý thức này thường hướng đến các giá trị thiêng liêng và tôn giáo.
Sự phức tạp trong tiến trình nhận định ơn gọi chính là mỗi người không chỉ có một động lực duy nhất khi đến với ơn gọi. Những động lực thúc đẩy ơn gọi nơi một người lại càng không hoàn toàn thuộc mức độ ý thức. Vì thế, bên cạnh những động lực ý thức vẫn có sự pha lẫn các động lực vô thức khác.
2.1.2 Các động lực vô thức
Các động lực vô thức thường rất khó nhận thấy. Thông thường, người ta cần nhờ đến các hình thức trắc nghiệm tâm lý hiện đại để khám phá ra các động lực này. Kết quả các loại trắc nghiệm này có thể giúp người ta khám phá và nhận biết mình rõ hơn. Một khi nhận biết các động lực vô thức, vốn thường bị lệch lạc và không lành mạnh, người ta có thể thanh luyện chính mình để mỗi ngày tiến đến sự tự do nội tâm hoàn hảo hơn.
Từ hai ví dụ trên đây, chúng ta có thể liệt kê ra một vài động lực vô thức thường hay tiềm ẩn dưới những giá trị tốt đẹp của bình diện ý thức như sau:
(1) Thực hiện ước muốn của cha mẹ
Ứng sinh được thôi thúc đến ơn gọi tu trì là để thực hiện ước muốn của cha mẹ. Chính người bạn trẻ không hề có xác tín cá nhân rằng mình nghe thấy tiếng Chúa kêu gọi và hoàn toàn muốn đáp trả tiếng gọi ấy. Khi nhận ra điều này, ứng sinh nhiều khi không đủ can đảm xin chuyển hướng khi biết rõ mình không có ơn gọi vì sợ làm cha mẹ buồn và thất vọng về mình. Nhưng khi cha mẹ không còn, thì việc chuyển hướng sẽ xảy ra vì động lực ơn gọi không còn nữa. Khi ấy, có thể ứng viên đã là một linh mục hay nữ tu nhưng lại không đủ sức tiếp tục con đường mà mình cho là đã chọn lựa một cách sai lầm trước đó chỉ để làm vui lòng cha mẹ! Nếu không bỏ cuộc thì đời sống tu trì lúc đó sẽ không còn ý nghĩa nữa. Nó chỉ là một chuỗi ngày kéo lê với tất cả mọi sự hỗn độn của nó, gây ra không ít khó khăn cho bản thân của người ấy vì không tìm được niềm vui và hạnh phúc, cho đời sống cộng đoàn và cho sứ mạng phục vụ của Giáo Hội.
Sự hiện diện của các linh mục, tu sĩ trong bà con họ hàng có thể ảnh hưởng đến việc chọn lựa ơn gọi của một ứng sinh. Ảnh hưởng này có thể tốt hoặc xấu tuỳ trường hợp. Nếu ứng sinh bị cuốn hút vì những giá trị tinh thần và thiêng liêng cao đẹp nơi sự dấn thân của các linh mục, tu sĩ này thì sự hiện diện đó sẽ sẽ ảnh hưởng tốt trên ơn gọi của ứng sinh. Ngược lại, nếu ứng sinh chỉ bị lôi kéo về các giá trị có vẻ thế tục ngoài xã hội như thấy họ có địa vị cao, được mọi người kính trọng, có cuộc sống đầy đủ tiện nghi… thì sự hiện diện này sẽ ảnh hưởng xấu trên ơn gọi của ứng sinh. Lúc đó, ứng sinh có thể theo đuổi ơn gọi để tìm kiếm các giá trị thế tục này cho bản thân mình.
(2) Ước muốn phát triển bản thân
Một bạn trẻ có thể được thôi thúc bước vào đời tu như một con đường tiến thân mở ra một bảo đảm tương lai cho bản thân. Lúc ấy, đời tu như một môi trường thuận lợi để phát triển các tài năng cá nhân. Việc phục vụ trở nên một cơ hội phô trương cái tôi trước mặt mọi người. Đặc biệt, trong bối cảnh hôm nay của Giáo hội Việt Nam, nhiều bạn trẻ gõ cửa các nhà dòng, tu hội là để có cơ hội học hành tốt hơn, thậm chí chỉ là để được đi ra nước ngoài. Khi mục tiêu này trở thành đích nhắm của ơn gọi, người ta sẵn sàng chấp nhận uốn mình vào kỷ luật đời tu trong thời gian huấn luyện để ráng “nín thở qua sông”. Qua tới bờ bên kia, họ trồi lên khỏi mặt nước và tiếp tục con đường của riêng mình!
(3)  Thoát khỏi cảnh nghèo
Ơn gọi tại Việt Nam hôm nay đa số phát xuất từ những gia đình nghèo ở miền quê. Điều này cũng có thể ảnh hưởng đến việc theo đuổi ơn gọi của ứng sinh. Kinh nghiệm thiếu thốn về đời sống vật chất khi còn ở gia đình có thể biến việc theo đuổi ơn gọi như một bù trừ nhằm thoát khỏi cảnh nghèo đói. Đời tu được xem như bảo đảm chắc chắn về đời sống vật chất và sự an toàn cho tương lai. Khi có được những điều mình tìm kiếm, đời tu cũng sẽ chẳng còn ý nghĩa!
(4) Mong được người khác chú ý
Đây là một nhu cầu phát xuất từ khuynh hướng sâu thẳm rất tự nhiên nơi con người: nhu cầu được mọi người chú ý đến. Việc theo đuổi đời tu là một chuỗi ngày tìm kiếm, lôi kéo sự chú ý của người khác dưới mọi hình thức. Những người này thường làm ra vẻ “nhân vật quan trọng”, thường hay lăng xăng trong những dịp đại lễ dù mình chẳng có nhiệm vụ gì! Việc học tập, thay vì được nhìn như phương tiện để có khả năng phục vụ, lại trở thành cơ hội tốt để chơi trội, để “nổi” hơn người khác. Những người này dễ có thái độ ghen tương với bất cứ ai trong cộng đoàn được chú ý hơn họ, hoặc ngấm ngầm tìm cách loại trừ, hạ bệ những ai có khả năng vượt trội hơn họ. Họ không thích làm những việc âm thầm nhưng tìm mọi cách để cho người khác nhìn thấy mình mà ca ngợi.
(5) Mong được người khác nhận biết
Ước muốn được người khác nhận biết cũng là một khuynh hướng căn bản và thâm sâu nơi con người. Khuynh hướng này có thể chi phối các hoạt động của một ơn gọi trong sứ mạng phục vụ. Thay vì nhắm đến ích lợi của người mình được sai đến để phục vụ thì lại tìm kiếm những ích lợi riêng cho chính bản thân mình.
(6) Mong được người khác chấp nhận
Được người khác chấp nhận cũng có nghĩa là được yêu thương, được thấy mình có giá trị. Một người để khuynh hướng này lấn át trong những quyết định chọn lựa hướng đi thì sẽ không đủ cam đảm để đứng về phía chân lý và khó có thái độ cương quyết khi phải quyết định một điều chính đáng và đúng đắn mà làm phật lòng kẻ khác. Lối sống này dễ đưa đến tình trạng “dĩ hoà vi quý”, hoà bình bằng mọi giá, miễn sao mình được người khác chấp nhận là được, không dám lên tiếng trước những sai trái của người khác!
7) Ước muốn bù trừ sự thiếu vắng tình cảm trong gia đình
Đây cũng là một sức mạnh tiềm ẩn không ngừng thôi thúc ứng sinh nhằm tìm kiếm bù trừ những thiếu vắng trong các tương quan của thời thơ ấu, đặc biệt trong lĩnh vực tình cảm. Sự thiếu vắng tình cảm của người cha hoặc người mẹ trong những năm tháng ấu thơ dễ làm cho đời sống cảm xúc của một ứng sinh mất đi sự quân bình. Sự thiếu vắng này thôi thúc ứng sinh thiết lập các tương quan khả dĩ bù đắp được những thiếu vắng về nhu cầu tình cảm của bản thân. Những thôi thúc này, nếu không được đưa ra ánh sáng ý thức để thanh luyện và trưởng thành về tâm cảm, sẽ đưa ứng sinh đến các tương quan thiếu lành mạnh, thậm chí nguy hiểm dưới những hình thức “yêu riêng” hoặc lệch lạc tình cảm trong đời tu, gây ra những xáo trộn và ảnh hưởng không tốt đến đời sống chung của một cộng đoàn.
(8) Tìm kiếm sự an toàn cho bản thân
Đời tu được tìm kiếm như một thành luỹ vững chắc cho tương lai. Sự bảo đảm về vật chất và sự an tâm về tương lai biến đời tu như một lối đi an toàn cho bản thân. Những người này sẽ ít dám liều lĩnh dấn thân trong các sứ vụ đụng chạm đến sự an toàn của bản thân, đặc biệt trong những lãnh vực khó khăn hoặc những sứ vụ nhiều thử thách, nguy hiểm đòi sự can trường và tín thác vào quyền năng Chúa.
(9) Tìm kiếm sự kính trọng, danh dự
Đời tu có thể bị biến tướng thành một cuộc tìm kiếm ngấm ngầm hư danh của thế gian nơi những thành công của các công việc tông đồ. Lời khen, tiếng chê của người khác dễ gây ảnh hưởng trên quyết định chọn lựa của ứng sinh trong sứ mạng phục vụ. Đặc biệt, yếu tố danh dự gia đình dễ gây ảnh hưởng lớn đến quyết định theo đuổi ơn gọi của ứng sinh, làm cho ứng sinh mất đi thái độ tự do nội tâm cần thiết trong việc nhận định, tìm kiếm và thi hành thánh ý Chúa trong cuộc đời mình.
(10) Sợ hãi người khác phái
Những kinh nghiệm tiêu cực trong thời gian thơ ấu đối với người khác phái sẽ để lại một nỗi sợ hãi đầy lo âu xao xuyến nơi tâm lý ứng sinh. Quyết định theo đuổi ơn gọi trong đời sống độc thân khiết tịnh vì Nước Trời vốn là một giá trị thiêng liêng tích cực, có thể trở thành sự che đậy nỗi sợ hãi đối với người khác phái khi ứng sinh chọn đời sống tu trì như một tránh né những phiền toái của đời hôn nhân do nỗi sợ hãi này gây ra. Điều này lại càng đúng nếu vết thương tâm lý do một biến cố quá khứ để lại vết thương khó chữa trị trong đời sống tinh thần và tâm linh của ứng sinh. Nỗi sợ hãi này có khi làm tê liệt khả năng thiết lập những tương quan tốt đẹp và lành mạnh trong sứ mạng phục vụ đối với tất cả mọi người khác phái.
Những động lực vô thức trên đây thường xuất phát từ những nhu cầu căn bản không được thoả mãn của thời thơ ấu. Nếu tình trạng này không được đưa ra ánh sáng ý thức để hiểu biết về chính mình, để được thanh luyện và điều chỉnh, thì tiến trình theo đuổi ơn gọi của một bạn trẻ sẽ dễ bị lệch lạc và thiếu vắng sự tự do nội tâm cần thiết cho mọi quyết định của một người trưởng thành về tâm cảm, về thiêng liêng và chín chắn trong ơn gọi. Vai trò của các vị đồng hành thiêng liêng trong tiến trình giúp đỡ các ứng sinh nhận định về ơn gọi của mình hết sức quan trọng. Điều này không chỉ tiến hành trong thời gian của một cuộc tĩnh tâm nào đó là đủ. Nó cần một sự thanh luyện và hoán cải liên tục trong suốt chặng đường ơn gọi để đi đến sự tự do nội tâm hoàn toàn để trở nên một dụng cụ mềm dẻo, dễ sử dụng và hữu hiệu trong bàn tay quyền năng Chúa.
2.1.3  Dụ ngôn lúa tốt và cỏ lùng (Mt 13,24-30)
Dụ ngôn này là một hình ảnh Kinh Thánh có thể  minh hoạ cho chúng ta hiểu rõ hơn về tình trạng lẫn lộn các động lực ý thức và các động lực vô thức trong một ơn gọi cũng như cách thức chúng ta cần tiến hành đối với cả hai loại động lực này.
Người đi gieo hạt giống tốt tương trưng cho một bạn trẻ đến với ơn gọi linh mục tu sĩ với tất cả động lực trong sáng, lành mạnh. Kẻ thù gieo cỏ lùng giữa đồng lúa ban đêm tương trưng cho sự hiện diện của các động lực vô thức không mấy phù hợp với các giá trị Tin Mừng.
Khi lúa mọc lên thì cỏ lùng cũng xuất hiện. Điều này làm cho người gieo giống tốt bối rối và lúng túng. Đó là sự lúng túng của người bạn trẻ tự hỏi không biết mình có ơn gọi tu trì không khi thấy các động lực vô thức lệch lạc xuất hiện trên bình diện ý thức.
Khuynh hướng tự nhiên của người bạn trẻ khi thấy những động lực vô thức xuất hiện là nghĩ đến mình bất xứng với ơn gọi cao quý nên lìa bỏ ơn gọi hoặc nghĩ rằng mình không có ơn gọi. Thái độ này tựa như thái độ của những đầy tớ đề nghị với chủ cho đi nhổ tất cả cỏ lùng trong ruộng lúa đang xanh tốt. Thế nhưng nếu họ làm như vậy thì sẽ có hại đến các cây lúa đang mơn mởn phát triển. Sẽ có những thời điểm thuận tiện để làm công việc luyện lọc này. Cần để cả lúa tốt lẫn cỏ lùng lớn lên đến mùa gặt. Đây là thời điểm một ơn gọi trưởng thành. Sự phát triển nhân bản, thiêng liêng cùng với cảm thức về nhân vị, về căn tính, về trách nhiệm sẽ cùng lớn lên theo. Đó là lúc ngưới ta có khả năng đối diện với các động lực vô thức cách trưởng thành hơn và thích hợp hơn. Đó cũng là lúc ngưới ta có thể đi đến những quyết định tự do hơn dựa trên những gì mình nhận định để sống phù hợp hơn nữa với các giá trị Tin Mừng.
2.1.4  Phân loại ứng sinh
Dựa trên sự pha trộn giữa những động lực ý thức và những động lực vô thức, chúng ta có thể đưa ra 3 loại ứng sinh đến với ơn gọi linh mục tu sĩ:
(1) Ơn gọi như tìm kiếm một địa vị xã hội
Sức hấp dẫn của ơn gọi tu trì đối với loại ứng sinh này là sự pha trộn giữa các thôi thúc ý thức với các thôi thúc vô thức. Trên bình diện ý thức, ứng sinh hiểu rằng ước muốn hy sinh sống đời tu trì sẽ được bù đắp bằng việc đạt đến một vị trí đáng được người khác kính trọng. Tuy nhiên, vẫn có những thôi thúc vô thức đi liền với những chọn lựa ý thức của ứng sinh như ước muốn được người khác chú ý, được nhìn nhận, được kính trọng, được phát triển tài năng cá nhân, thoát khỏi cảnh nghèo… Cũng có khả năng ứng sinh bị cuốn hút bởi các yếu tố bên ngoài như tu phục, biểu tượng của sự quý mến của mọi người hay một bậc sống được mọi người trân trọng.
(2) Ơn gọi như thực hiện một công việc mình thích
Sức hấp dẫn ứng sinh loại này đến với ơn gọi tu trì là một công việc, một sứ mạng cụ thể nào đó. Cuộc sống tu trì là một công việc cụ thể hơn là sự cam kết dâng hiến bản thân.
Xét về động lực ý thức thì nó có thể tích cực hoặc tiêu cực. Tích cực, nếu sức hấp dẫn đến từ một sứ mạng hoặc một sự dấn thân phục vụ. Tiêu cực, nếu nó không đưa đến sự thanh luyện. Điều gì sẽ xảy ra cho một linh mục hoặc một nữ tu loại này nếu vì một tai nạn hoặc một sự cố nào đó, họ không còn khả năng làm việc đó nữa? Điều gì sẽ xảy ra nếu dòng tu ấy không còn điều kiện thi hành sứ mạng qua công việc phục vụ đó nữa? Ví dụ, một thiếu nữ đi tu chỉ vì thích dạy học nhưng bây giờ cộng đoàn không được quyền mở trường nữa chẳng hạn? Có khá nhiều bạn trẻ đến với ơn gọi linh mục tu sĩ thuộc loại thứ hai này. Họ cần được thanh luyện khỏi các động lực vô thức thường không phù hợp với các giá trị Tin Mừng.
(3) Ơn gọi như một dấn thân do xác tín về một giá trị thiêng liêng
Sức hấp dẫn ứng sinh loại này đến với đời sống tu trì là ước muốn gặp gỡ sâu xa với Chúa Giêsu. Họ muốn nên giống Chúa Giêsu trong cung cách hành xử, nơi các nhân đức, các giá trị. Họ ý thức đây là một tiến trình đòi hỏi sự hoán cải liên tục về các thôi thúc, cũng như việc nhận định thiêng liêng để đáp lại lời mời gọi và vượt qua những thách đố để thực thi sứ mạng hằng ngày. Họ ước muốn dấn thân trong ơn gọi để trao ban hơn nữa. Họ trưởng thành về tâm lý và thiêng liêng. Nếu xét về tỉ lệ, ứng sinh loại này chỉ chiếm một số ít. Họ vẫn có những ước mơ đóng góp vào việc làm biến đổi thế giới và làm cho thế giới trở thành một nơi xứng đáng hơn để ở. Họ sinh nhiều hoa trái thiêng liêng trong cuộc sống dâng hiến và tông đồ.
Trong hoàn cảnh thực tế hiện nay của Việt Nam, các bạn trẻ cần được chuẩn bị trong những năm tìm hiểu và nhận định ơn gọi để có thể đi từ loại một và loại hai sang loại ba. Các ứng sinh loại cuối cùng này sẽ có sự bền vững nhất trong tiến trình theo đuổi và sống ơn gọi dâng hiến và tông đồ cách sung mãn. Đây là loại ứng sinh có những dấu chỉ tốt nhất về ơn gọi tu trì.
2.2 Các yếu tố bên ngoài
Ngoài các yếu tố quan trọng bên trong, chúng ta còn chú ý nhận định một số các yếu tố bên ngoài sau đây xem ứng sinh có phù hợp với ơn gọi không:
(1) Sức khoẻ: Ứng sinh cần có sức khoẻ tốt và bền bỉ để có thể theo đuổi ơn gọi và thi hành sứ mạng tông đồ trong tương lai. Hiện nay, nên chú ý đến tình trạng bệnh lý về tim mạch do cuộc sống có nhiều căng thẳng gây ra nơi các em. Cần lưu ý đến các yếu tố tâm lý có thể ảnh hưởng đến sức khoẻ thể lý, đặc biệt những xung đột nội tâm.
(2) Tuổi tác: Không nên quá trẻ, cũng không nên quá lớn tuổi. Độ tuổi tốt nhất hiện nay khoảng từ 18 đến 24 tuổi. Tuổi càng lớn sẽ càng khó huấn luyện vì hầu hết nhân cách và quan niệm sống của một người đã hình thành. Ứng sinh càng lớn tuổi càng khó có khả năng biến đổi trong quá trình huấn luyện.
(3) Trưởng thành thiêng liêng: Có nền tảng cần thiết cho một đời sống đức tin vững chắc vào Thiên Chúa. Biết cách cầu nguyện và suy niệm Lời Chúa. Yêu mến sự gắn bó kết hiệp mật thiết với Chúa. Siêng năng lãnh nhận các bí tích, đặc biệt bí tích Hoà Giải và Thánh Thể. Có hiểu biết căn bản về Giáo lý Công giáo. Tham gia một số các hoạt động tông đồ cụ thể trong giáo xứ hoặc những hình thức phục vụ xã hội khác. Có những đức tính căn bản như sự chân thật, lòng trung tín, quảng đại phục vụ, không sợ hy sinh.
(4) Trưởng thành tâm cảm (Psycho-emotional maturity): Ứng sinh cần có mức độ trưởng thành về tâm cảm cần thiết để cuộc sống được quân bình trong mối tương quan với những anh chị em khác trong cộng đoàn. Có khả năng thiết lập những tương quan lành mạnh trong đời sống tông đồ phục vụ. Cần chú ý đặc biệt khả năng sống đời sống khiết tịnh thánh hiến trong bối cảnh xã hội văn hoá mở cửa hôm nay. Không rơi vào các mặc cảm tự ti hoặc tự tôn vốn cản trở sự phát triển của một nhân cách tôn giáo lành mạnh. Khả năng biết mình và sống tự do nội tâm.
(5) Khả năng trí thức: Cần có khả năng trí thức trung bình hoặc cao hơn tuỳ mức đòi hỏi của chủng viện, dòng tu, tu hội. Khả năng này nhằm đáp ứng việc tiếp nhận những kiến thức về đời sống đức tin, những môn học cần thiết trong quá trình huấn luyện. Khả năng này thường được đánh giá qua chỉ số IQ (Intelligence Quotitent). Nhưng cần lưu ý, chỉ số này chỉ mang tính tham khảo về khả năng ứng sinh chứ không có tính quyết định để được nhận hay không. Một ứng sinh có thể rất thông minh nhưng lại thiếu khả năng sống tương quan trong cộng đoàn hoặc khả năng tạo lập những tương quan lành mạnh với tha nhân trong cuộc sống phục vụ. Các nghiên cứu chuyên môn cho thấy không có mối tương quan chặt chẽ giữa chỉ số thông minh (IQ) và mức độ trưởng thành về tâm cảm (EQ).
(6) Một số các đòi hỏi khác: Tuỳ theo mỗi linh đạo và đặc sủng phục vụ mà ứng sinh cần đáp ứng một số các điều kiện khác như khả năng viết lách, thuyết giảng, chăm sóc bệnh nhân, sống với người nghèo, thích ứng được với các vùng truyền giáo…
LỜI KẾT
(1)Vừa là một mầu nhiệm đến từ tiếng gọi của Thiên Chúa, vừa là một tiến trình nhận định thiêng liêng từ phía con người để đọc và khám phá ra dấu chỉ ơn gọi nơi các bạn trẻ, tiến trình nhận định ơn gọi tu trì vừa đòi hỏi những vị đồng hành thiêng liêng nhiều kinh nghiệm nhân bản và thiêng liêng, vừa có những hiểu biết sâu xa về con người, đặc biệt là hiểu được tâm thức và ngôn ngữ của các bạn trẻ hôm nay để giúp họ khám phá tiếng gọi của Chúa và quảng đại đáp trả.
(2) Để vun trồng ơn gọi nơi người trẻ, ước muốn mà thôi vẫn chưa đủ. Cần giúp các bạn trẻ hiểu biết và nhận ra điều gì đang thúc đẩy mình tìm đến với ơn gọi. Cần làm sáng tỏ cả động lực ý thức lẫn các động lực vô thức để đi đến một nhận định thiêng liêng sâu xa về lịch sử  của từng ơn gọi.
(3)Ơn gọi, trước hết là lời mời gọi trở nên một con người có niềm tin sâu xa vào Thiên Chúa. Kế đến là lời mời gọi bước vào một lối sống, lối sống nhân bản, làm người, nền tảng căn bản cho mọi tiếng gọi khác. Từ đây, người trẻ mới có khả năng đáp trả tiếng gọi của niềm tin, đi theo Chúa Kitô một cách triệt để trong đời sống tu trì và dâng hiến của linh mục, tu sĩ để lớn lên trong sự phát triển hài hoà giữa nhân bản và thiêng liêng nhờ hiểu biết hơn về chính mình.
(4)Dù con người có một phần tự do và một phần không hoàn toàn tự do nhưng Thiên Chúa mời gọi chúng ta lớn lên trong tự do mà Chúa đã tạo dựng. Chúa muốn chúng ta tự do trong việc đáp trả tiếng Chúa kêu gọi khi quyết định chọn lựa đời sống linh mục, tu sĩ.
(5) Động lực ơn gọi là nhân tố chính yếu để bảo đảm cho sự bền vững của ơn gọi tu trì. Mỗi ơn gọi đều pha trộn giữa những động lực ý thức với những động lực vô thức. Những động lực vô thức cần được đem ra ánh sáng để được thanh luyện từ từ theo các giá trị Tin Mừng. Nếu những động lực vô thức này không được thanh luyện, một người sẽ trở nên khuyết tật về nhân cách và không thể trưởng thành để sống ơn gọi linh mục tu sĩ cách tốt đẹp và đem lại hoa trái thiêng liêng cho cuộc sống phục vụ.
(6)Sau cùng, ơn gọi tu trì hướng đến tâm điểm là chính con người của Đức Giêsu, mẫu mực của mọi ơn gọi. Đáp lại tiếng Chúa mời gọi là noi theo cung cách sống và hành xử của chính Chúa trong sứ mạng yêu thương và phục vụ cho sự sống của tha nhân như Chúa Giêsu: “Tôi đến để cho đoàn chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10).
[1] Trình bày dựa theo những ý tưởng chính của bài thuyết trình “Beneath and Beyond the Roman Collar and the Habit: Motivations For Priestly and Religious Vocation”của Sr. Judette Gallares, RC. Tại Hội nghị Chuyên đề về Ơn gọi tại Châu Á do Liên HĐGM Châu Á (FABC) tổ chức tại Trung tâm Huấn luyện Mục vụ Tổng Giáo phận Bangkok, Thái Lan, Baan Phu Wann, ngày 23-10-2007, với ứng dụng vào hoàn cảnh cụ thể của Giáo Hội tại Việt Nam.
Nguồn: http://dongten.net/noidung/22469