Ý cầu nguyện tháng

- Ý CẦU NGUYỆN THÁNG 10:

Cầu cho sứ vụ của người giáo dân trong Giáo Hội:
Xin cho các Kitô hữu giáo dân, cách riêng là phụ nữ, khi đã lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, có thể tham gia nhiều hơn vào các cơ quan hữu trách của Giáo Hội.

Thứ Ba, 31 tháng 1, 2017

CHÚC MỪNG LỄ THÁNH GIOAN BOSCO - Bổn mạng Giáo khu 1



31-1: THÁNH GIOAN BOSCO
Linh mục

Gioan Bosco sinh ngày 16-8-1815 tại nông trại Becchi, con của Phanxicô Bosco và Magarita Ochiena. Anh cùng cha khác mẹ của Gioan Bosco là Antôniô, và người anh cùng cha mẹ với Gioan Bosco là Giuse Bosco.
NHỮNG NĂM ĐẦU ĐỜI
Khi Gioan Bosco mới hai tuổi, thì cha cậu là ông Phanxicô bị mắc chứng sưng phổi, đã qua đời để lại cho vợ là bà Magarita 3 người con trai và một bà nội cao tuổi và ốm yếu  để chăm sóc.  Đó là những năm thực khó khăn đối với mẹ Magarita; nhiều người chết vì đói và bệnh dịch. Mẹ Magarita cùng với con cái mình sống sót nhờ mua lúa gạo với giá mắc từ nơi cha Vittorio Amede, được coi là người cho vay nặng lãi đích danh.
Lên chín tuổi,  cậu bé Gioan Bosco có một giấc mơ mà chính ngài vẫn coi là có tính cách tiên tri, và đã nhiều lần kể lại cho các học sinh ”Nguyện xá” của Ngài: “Cha như thấy mình ở gần nhà, trên một cái sân rất rộng, cả một lũ đông các trẻ vui chơi: Chúng cười, giỡn, và chửi rủa phạm thượng. Thế là cha lao vào chúng, dùng đấm và lời lẽ. Lúc ấy một Đấng uy nghi hiện ra cho cha, mặt Ngài sáng ngời, nhìn chẳng nổi. Ngài gọi cha bằng tên và ra lệnh cho cha đứng đầu lũ trẻ. Ngài còn nói thêm: “Con hãy làm cho mình thành bạn hữu, không phải với những cú đấm đá, mà với sự dịu dàng và bác ái. Hãy nói với chúng phạm tội là điều dữ, và tình bạn hữu cùng Chúa là điều quí báu”.
Nhưng cha xấu hổ, vì mình chỉ là đứa bé dốt nát, nghèo hèn, không thể nói về tôn giáo cho lũ trẻ này. Lũ trẻ im ắng trở lại, bu quanh người lạ đó. Cha thì hỏi: “Ông là ai, sao ông nói cho cháu những chuyện không thể làm được đó?” “Chính vì là những chuyện không thể làm được mà con phải làm cho thành có thể với sự vâng lời và việc đạt thấu đƣợc khoa học”. ”Sao con có thể làm được?”
“Ta sẽ ban cho một bà giáo, bà sẽ làm cho con trở nên khôn ngoan”. “Vậy ông là ai?”. “Ta là Đấng mà mẹ con chào mỗi ngày ba lần” ”Mẹ con không cho phép con nói chuyện với ngƣời xa lạ.” “Vậy con hỏi tên ta với mẹ của ta”. Cha liền thấy một bà uy nghi, áo rực rỡ, như đầy các ngôi sao trên đó. Thấy cha mội lúc một xấu hổ, bà cầm tay cha thân ái mà nói: “Con hãy nhìn nè!”. Lũ trẻ biến  đi, thay vào đó là vô số dê, chó, mèo, gấu, và nhiều con vật khác. Bà nói với cha: “Đấy là cánh đồng hoạt động của con. Hãy lớn lên, khiêm nhường, kiên cường và mạnh mẽ. Con sẽ làm cho chúng biến thành các con của mẹ!”. Và này chúng bỗng biến thành các con chiên hiền lành chạy giỡn quanh ông đó và bà lạ đó! Cha bỗng bật khóc, chẳng hiểu gì. Bà liền cầm lấy ta cha và nói: “Tới đúng thời, con sẽ hiểu”. 
Cả nhà cha nghe cha kể lại giấc mơ. Anh Giuse nói: Em sẽ là đứa chăn chiên. Mẹ cha nói: Có lẽ con sẽ trở thành linh mục. Anh cả Antôniô thì nói: Mày sẽ thành tướng cướp. Lời sau cùng của bà nội, người không biết đọc biết viết: Đừng có tin vào mộng mị! Cha cũng nghĩ như bà nội. Nhưng kể từ đó giấc mơ này chẳng bao giờ để cho cha được yên lòng cả!
VIỆC HỌC HÀNH CỦA GIOAN BOSCO
Tiếp theo giấc mơ, bé Gioan quyết theo học làm linh mục. Ở làng Capriglio gần đó có cha Lacqua dạy học, nhưng ngài không nhận trẻ con ở làng khác. May thay người nữ giúp việc cho cha qua đời, và dì của bé Gioan Bosco đến giúp việc cho cha. Qua sự can thiệp của dì, bé Gioan được cha Lacqua nhận vào học cách miễn cưỡng, nhưng sau đó khi gặp gỡ bé lâu ngày, ngài vô cùng mến thương em! 
Để giúp cho trẻ em thôn Becchi cầu nguyện và dự Thánh lễ, bé Gioan học làm xiếc, ma thuật, và trước buổi thao diễn, bé Gioan luôn cất kinh lần hạt và đọc lại bài Phúc Âm chúa nhật cho chúng nghe. Lũ trẻ hoàn toàn say mê thứ trò ảo thuật kỳ diệu của bé Gioan!
Năm 1826, bà nội qua đời. Vì bà nội đủ sức cầm cương dàn hòa cả ba đứa trẻ. Nhưng bây giờ bà mất, mẹ Magarita sợ mọi chuyện sẽ đổ vỡ, nên vội xin cha xứ cho bé Gioan được rước lễ sớm hơn một năm, ở tuổi mười một.  Vậy là ngày 26-3-1826, ngày lễ Phục sinh, bé Gioan đƣợc rước Mình Thánh lần đầu tiên. 
Mùa đông năm đó thật là ảm đạm. Anh cùng cha khác mẹ Antoniô bực tức vì bé Gioan đi học và lại làm xiếc mua vui cho lũ trẻ trong thôn, nên hay gây gổ, nhiều lần Gioan phải lanh lắm mới thoát bị anh đánh. Me Magarita buộc phải cho bé Gioan đi ở thuê cho nông trại gần đó của ông Lu-y và bà Đorôtea Moglia từ năm 1827 đến năm 1829. 
Vào tháng 9 năm 1829, cha Gioan Calosso, một vị linh mục 70 tuổi, về Morialdo. Thấy cậu bé Gioan thông minh, tốt lành, liền chấp nhận dạy cậu văn phạm Latinh để chuẩn bị làm linh mục. Nhưng 21 tháng 11 năm 1930, ngài bị vỡ mạch máu não qua đời. Lúc hấp hối ngài trao chìa khóa hòm tiền cho Gioan với số tiền là 7000 lia, đủ để hoàn tất việc học làm linh mục của cậu. Khi người cháu của cha Calosso đến, Gioan đã chọn việc trao chìa khóa thừa kế lại cho người cháu, thân nhân của cha.
Ngày 21 tháng 3 năm 1831, anh Antoniô lập gia đình, nên mẹ Magarita quyết định chia phần gia sản cho anh. Thế là Gioan được trở về gia đình và tới theo học tại Castelnuovo, ở bán trú tại nhà ông thợ may và nhạc sĩ Gioan Roberto, người chấp nhận truyền nghề may và âm nhạc cho cậu. Cuối năm cậu quyết định lên thành phố Chieri theo học, mùa hè thì về nông trại mới của anh Giuse kiếm thêm tiền để đào sâu việc học hành.
Nhờ cha Emanuele Virano, thầy dạy của cậu, Gioan Bosco lấy lại được những thời gian mất học. Nhưng  khi cha Nicola Moglia thay thế ngài, thì vì tuổi cao, ngài không giữ nỗi kỷ luật được cho đám học sinh, nên Gioan chẳng còn học được mấy. Bù lại, cậu có dịp học hỏi thêm về các nghề may và nghề thợ rèn với Robertô và Evasio Savio.
TRÊN ĐƯỜNG TIẾN TỚI CHỨC LINH MỤC
Tại Chieri, cậu theo học và làm tạp vụ kiếm tiền như trông coi tiệm bán hàng, làm bồi bàn, coi chuồng ngựa... Tại đây, cậu cũng lập ”Hội Vui” trong đó cậu cùng với các bạn thiện chí  giúp các bạn đồng trang  lui tới với việc cầu nguyện qua các trò chơi xiếc của mình. Có lần cậu đã thắng được người làm xiếc chuyên nghiệp. Cũng trong những năm này, cậu kết tình bạn với Lu-y Comollo, người cháu của cha xứ Cinzano. Cậu bé này có tính tình dễ thương và chịu đựng, trong khi Gioan Bosco thì không thể nào chịu đựng nỗi khi thấy bạn mình bị các bạn hữu khác hà hiếp, nên đứng ra bảo vệ. Những lời lẽ dịu dàng và việc cầu nguyện không ngừng của Comollo khuấy động tâm hồn cậu cách sâu xa. Cậu phải thú nhận: ”Với anh ấy, tôi mới thực sự học sống đời Kitô hữu”. Nhờ gương sáng của thái độ hiền hòa, vô tội của bạn, vị thánh tương lai thâm tín được nỗ lực phải nên thánh và cứu các linh hồn, sau này nó được đúc kết trong câu châm ngôn ”Xin cho con các linh hồn, còn mọi sự khác xin Chúa cất đi”.
Hai năm học tại Chieri, Gioan hoàn tất các chương trình trung học. Cậu đã xin và được chấp nhận vào dòng Phan Sinh, nhưng có lẽ vì muốn nâng dỡ mẹ già về kinh tế trong tương lai, nên cậu lại gia nhập Đại Chủng viện. Sau năm năm theo học thần học, cậu đã trở thành linh mục. Suốt những năm học thần học, cậu lại được gặp gỡ người bạn Comollo xưa. Hai người kết ước với nhau nếu ai chết trƣớc, thì sẽ trở về báo tin mình có được cứu rỗi hay không. Comollo đã chết trước và cuộc hiện ra báo tin được cứu rỗi của anh tạo nên một kinh nghiệm khủng khiếp cho Gioan Bosco về việc tiếp xúc với thế giới đời sau!
Trở thành linh mục, có nhiều đề nghị hậu hĩnh cho tương lai của cha Gioan. Nhưng cuối cùng cha tiếp tục theo học  trong ba năm tại trường giáo sĩ do cha Lu-y Guala và cha Cafasso đảm nhận, để hoàn tất việc chuẩn bị cho mục vụ linh mục của mình.
NHỮNG CUỘC GẶP GỠ ĐẦU TIÊN VỚI GIỚI TRẺ
Tại Torinô, cha Gioan Bosco chứng kiến cảnh các thanh thiếu niên cà bơ cà bất lên thành phố kiếm việc làm, không được ai chăm sóc về nghề nghiệp cũng như tôn giáo. Thống kê cho thấy có tới 7184 em dưới 10 tuổi đời kiếm việc làm tại các công xưởng. Các em rất tôn kính và yêu quí người đứng ra yêu thương và bảo vệ các em. Cùng với cha Cafasso, cha Bosco còn thăm các tù nhân thanh thiếu niên phạm pháp.
Ngày 8 tháng 12, năm 1841, lần đầu tiên cha Gioan Bosco gặp một thiếu niên không biết tí gì về giáo lý, tên là Garelli, rồi ba anh em Buzzetti đến từ miền quê Carono Varesino, ngủ gật trong suốt bài giảng của cha.
Những em này sau đó kéo theo đám trẻ tới với cha ngày một đông Với các bạn thanh thiếu niên trợ giúp, và các cha Carbano, Ponte, Trivero, cha Don Bosco bắt đầu công cuộc tông đồ thanh thiếu niên độc đáo của ngài dƣới hình thức ”Nguyện xá”, một hình thức giáo xứ di động thay thế nhà xứ chính thức, để phục vụ cho các em từ quê lên thành phố, lang thang không được ai chăm sóc về tôn giáo, việc làm, học hành và vui chơi giải trí.
LÀM VIỆC GIÚP ĐỠ CHO NỮ BÁ TƯỚC BAROLO
Mùa thu năm 1844, cha Cafasso loan báo cho Don Bosco chuẩn bị hành trang sang phục vụ tại nhà thương thánh Philômena của nữ bá tước Barolo. Cha Cafasso muốn người bạn linh mục trẻ của ngài quen biết với cha Gioan Borel, vị linh mục có liên quan tới nhà vua, là người có thể giúp đỡ Don Bosco tiếp tục tiến hành công cuộc Nguyện xá. Còn cha Borel thì trở thành vị giám đốc trên danh nghĩa của hiệp hội Nguyện xá này.
Ngày 12-4-1846, lễ Phục sinh, Don Bosco cuối cùng tìm được nơi định cư cho công cuộc của ngài tại căn nhà Pinardi ở Valdocco. Năm 1854, Don Bosco khai sinh Tu hội Salêdiêng, qua đó ngài có được sự bền vũng cho các công cuộc và cho tình thần phục vụ giới trẻ của ngài trong tương lai. Mười năm sau, ngài đặt viên đá đầu tiên cho Đền thờ Đức Mẹ Phù Hộ Các Giáo Hữu.
Năm 1872, với thánh Maria Đomenica Mazzarello, ngài sáng lập Tu hội Con Đức Mẹ Phù Hộ nhằm giáo dục cho các thanh thiếu nữ với cùng một tinh thần trên.
CÁC ĐỢT PHÁT XUẤT TRUYỀN GIÁO SANG ÁCHENTINA
Năm 1875 là đợt xuất phát truyền giáo Salêdiêng đầu tiên sang Áchentina, vùng đất di dân Ý lớn nhất vào thế kỷ thứ XIX. Trong thời gian đó Don Bosco cũng thiết lập Hội Cộng tác viên Salêdiêng được ngài coi là ”các Salêdiêng giữa đời”. Việc hiện diện truyền giáo của các Salêdiêng tại đây là do Đức Cha Aneiros yêu cầu.  Được ông lãnh sự Ý tại Áchentina là Gioan Tẩy giả Gazzolo báo tin về công việc của các Salêdiêng, Đức Cha đã đề nghị Don Bosco tiếp nhận việc điều hành giáo xứ tại Buenos Aires và một trường học các trẻ em trai tại San Nicolás de Los Arroyos. Don Bosco tiếp nhận lời thỉnh nguyện. Trong một lễ nghi long trọng tại Vương cung Thánh đường Đức Mẹ Phù Hộ Các Giáo Hữu tại Torinô, ngày 11-11-1875, đoàn truyền giáo đầu tiên lên đường. Dưới sự dẫn đầu của cha Cagliero, các nhà truyền giáo của Don Bosco xuống tàu tại Genova ngày 14-11-1875. Tại Buenos Aires, họ tiếp nhận một giáo xứ dành cho các di dân Ý.
Đợt xuất phát truyền giáo thứ hai xảy ra vào ngày 14-11-1876. Cha Phan Sinh Bodrato dẫn đầu đoàn truyền giáo. Với họ, một trường dạy nghề mới tại Buenos Aires được mở, với các nghề may, mộc đóng sách.
Cuộc xuất phát truyền giáo III xảy ra vào năm 1877. Lần này cùng với các Salêdiêng, còn có cả các Con Đức Mẹ Phù Hộ (nữ Salêdiêng), do sơ Angela Vallese dẫn đầu. Tuy nhiên giấc mơ của Don Bosco về Áchentina hướng về Pantagonia (Dải đất lửa) Sau những năm chờ đợi, vào năm 1879 cơ hội đã đến, chính phủ Áchentina trao cho tướng Julio Roca hành quân nhằm chinh phục vùng đất hoang sơ sa mạc này. Đức Cha Espinosa, Giám mục phó của Buenos Aires và các Salêdiêng là cha Giacomo Castamagna và thầy tư giáo Botta đi theo đạo quân trong tư cách các vị tuyên úy. Thế là cuộc truyền giáo Pantagonia khởi sự.
Carmen de Patagones là công cuộc Salêdiêng thứ nhất. Sau này còn có công cuộc được mở tại Malal, Bahía Blanca, Junín de los Andes, và nhiều nhà khác nữa. Các nhà truyền giáo vĩ đại như  cha Milanesio và cha Fagnano dấn thân đầy sức sáng tạo mục vụ vào vùng đất quảng đại này và vào trong lòng dân chúng tại đây, nhất là các người dân da đỏ tại các cánh đồng hoang. Năm 1884, cha Cagliero được bổ nhiệm làm Giám mục ngày 7 tháng 12 cùng năm.
Hoạt động truyền giáo của Don Bosco bắt đầu có những kết quả trong lòng Hội Thánh. Tầm quan trọng của việc hội nhập văn hóa Salêdiêng vào vùng Nam Mỹ được biểu lộ trong bản tăng- gô “Chiếc thuyền nan của các thương gia”, viết và phổ nhạc bởi nhạc sĩ Enrique Santos Discepolo, trong đó Don Bosco đƣợc giới thiệu như là nhà thể thao đầu tiên của Quốc hội Áchentina và là anh hùng của quốc gia này.
Một sự góp mặt đáng kinh ngạc tại đây chính là dung mạo của Artemide Zatti, một di dân trẻ Ý vào Áchentina, đã trở thành Salêdiêng, với một công việc khiêm cung và quí báu là một y tá đậm hương vị của một nền linh đạo sâu sắc và một đức ái hăng nồng. Thêm vào đó là hai dung mạo gốc Áchentina là Ceferino Namuncura (da đỏ) và Laura Vicunha (nữ sinh của dòng Con Đức Mẹ Phù Hộ) qua đời năm 13 tuổi. Cả ba vị này đều đựợc phong Chân phước.
CÔNG CUỘC DON BOSCO NỞ RỘ KHẮP NƠI
Đương thời của Don Bosco, các công cuộc của ngài không chỉ trên khía cạnh truyền giáo, mà còn được rộng mở khắp Âu châu, là Ý, Pháp, Tây Ban Nha... Trong ba người đồ đệ trực tiếp của Don Bosco lên kế vị ngài trong chức vụ Bề trên cả, có hai người được Hội Thánh phong Chân phước là Á thánh Micae Rua và Á thánh Rinalđi.
CÁI CHẾT VÀ VIỆC PHONG THÁNH CHO DON BOSCO
Don Bosco qua đời sáng sớm ngày 31 tháng 1 năm 1888 và nay được chôn cất tại Đền thờ Đức Mẹ Phù Hộ, trong một nhà nguyện ở cánh phải. Sứ điệp giáo dục của ngài tổng kết lại trong ba chữ: Lý trí, tôn giáo và tình yêu thương. Ở tận nền tảng của hệ thống giáo dục dự phòng của ngài chính là một tình yêu sâu sắc dành cho thanh thiếu niên, là chìa khóa của công cuộc giáo dục của ngài.
Ngày 2-6-1929, Đức Thánh Cha Piô XI phong Á thánh cho ngài, và công bố ngài là Hiển thánh vào ngày 1-4-1934, nhằm vào lễ Chúa Phục sinh.
MỘT ÍT CÂU TRÍCH CỦA DON BOSCO
“Ngưng lại một sự ưu ái tạo nên một hình phạt kích thích việc thi đua trong đàng nhân đức”
“Một ánh nhìn yêu thương trên một em nào đó tạo nên một hiệu quả to lớn hơn là một cái tát”
“Tuyệt đối cấm đánh đập dưới bất cứ hình thức nào, việc bắt quì gối trong một tư thế đau đớn, việc kéo mang tai hay những hình phạt tương tự như thế, bởi vì luật pháp dân sự cấm, và cũng bởi vì chúng gây bực dọc trong lòng thanh thiếu niên và chúng hạ thấp người giáo dục.”
(Trích dẫn cuốn sách nhỏ: “Hệ Thống Giáo Dục Dự Phòng” của Don Bosco).

Tiên tri Isaia đã viết: ”Những lời Ta đặt vào miệng Ngươi, Ngươi đừng để rời khỏi miệng; lễ vật của Ngươi đặt trên bàn thờ Ta sẽ được Ta chấp nhận "( Is 59, 21 ). Chúa đã sai thánh Gioan Bosco đến để giáo dục thanh thiếu niên và yêu thương các trẻ em mồ côi. Lời Chúa qua miệng tiên tri Isaia quả đúng với cuộc đời thánh nhân.
LỜI NGUYỆN CẦU
Lạy Chúa, Chúa đã cho xuất hiện trong Hội Thánh một người cha và một bậc thầy của giới thanh thiếu niên là thánh linh mục Gioan Bosco. Xin Chúa cũng đốt lửa yêu mến trong lòng chúng con, để chúng con biết phụng sự một mình Chúa và lo cho anh em được cứu rỗi (Lời nguyện Nhập lễ, lễ thánh Gioan Bosco).

Đaminh Phạm Xuân Uyển SDB
(Trong Đaminh Phạm Xuân Uyển SDB, Vườn thánh thiện 1, tr. 42-51).
Nguồn: http://loichua.donboscoviet.net/index.php/suy-nie-m-ca-c-nga-y-le/chu-tha-nh/item/655-ng%C3%A0y-31-th%C3%A1ng-1-th%C3%A1nh-gioan-bosco

Thứ Sáu, 27 tháng 1, 2017

Thư chúc mừng Năm mới Đinh Dậu - 2017 của Hội đồng Giám mục Việt Nam gửi Cộng đồng Dân Chúa

Nguồn: http://hdgmvietnam.org/thu-chuc-mung-nam-moi-dinh-dau-2017-cua-hoi-dong-giam-muc-viet-nam-gui-cong-dong-dan-chua/8564.116.3.aspx

Mừng Xuân Đinh Dậu 2017: Những năm Dậu trong lịch sử Giáo Hội tại Việt Nam

Trung tâm Thánh Mẫu Trà Kiệu
nơi Đức Mẹ hiện ra năm Ất Dậu (1885) để che chở các tín hữu

MỪNG XUÂN ĐINH DẬU 2017
NHỮNG NĂM DẬU TRONG LỊCH SỬ GIÁO HỘI TẠI VIỆT NAM (*)
Theo Khâm định Việt sử thông giám cương mục, bộ sách sử do Quốc Sử Quán triều Nguyễn soạn thảo vào khoảng năm 1856–1884, sự xuất hiện của một nhà truyền giáo phương Tây đến Việt Nam được ghi nhận trong quyển thứ 33 [1] như sau: “Theo sách Dã Lục [2], thì ngày tháng 3 năm Nguyên Hòa thứ nhất (1533) đời Lê Trang Tông, người Tây Dương tên là I-nê-khu lén lút đến xã Ninh Cường, xã Quần Anh huyện Nam Chân và xã Trà Lũ huyện Giao Thủy [3], ngấm ngầm truyền giáo về tả đạo Gia tô”.
Như vậy, nếu lấy sự kiện được ghi trong sử sách nêu trên, đến nay Tin Mừng được rao giảng trên đất nước Việt Nam đã được 584 năm (1533–2017). Trong hơn năm thế kỷ đó, có 40 năm Dậu.
Nhân dịp Xuân về, đón năm mới Đinh Dậu, nhìn lại những sự kiện trong lịch sử Giáo Hội Công Giáo tại Việt Nam diễn ra trong các năm Dậu, vừa như một cách chào năm Đinh Dậu 2017, vừa để “ôn cố tri tân”.

***
THẾ KỶ 16
Ất Dậu 1585
Hai linh mục Luis de Fonseca, O.P. (Bồ Đào Nha) và Grégoire de la Motte, O.P. (Pháp) từ Malacca tới Việt Nam năm 1580, giảng đạo tại Quảng Nam thời Chúa Nguyễn Hoàng suốt 6 năm (1580–1586). Năm 1585 (Ất Dậu), cha Fonseca bị binh lính của chúa Nguyễn Hoàng sát hại lúc ngài đang dâng thánh lễ. Năm sau (1586), cha Grégoire de la Motte cũng bị sát hại.
THẾ KỶ 17
Ất Dậu 1645
– Cha Alexandre de Rhodes (Ðắc Lộ) bị chúa Nguyễn (lúc đó là chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan) trục xuất vĩnh viễn khỏi Việt Nam. Ngày 3.7.1645 cha Alexandre de Rhodes (Ðắc Lộ) rời Đàng Trong đi Macau. Đến nơi, cha bắt tay viết Tường trình về Đàng Trong và được ấn hành tại Paris năm 1652. Sách dày 135 trang. Đây là bản phúc trình hoạt động của cha Đắc Lộ ở Đàng Trong trong các năm 1644– 1645. Trong sách, ngài kể lại cuộc bách hại đạo năm 1644 và cuộc tử đạo của thày giảng Anrê Phú Yên.
– Tháng 12/1645, cha Đắc Lộ từ Macau đi Roma. Đến nơi, ngài phúc trình cho Tòa Thánh về những tiến triển mau chóng trong việc truyền giáo tại Việt Nam, nhất là xin Tòa Thánh gửi một số giám mục đến cánh đồng phì nhiêu này để củng cố nền móng Giáo Hội. Cha mang theo thủ cấp của thầy giảng Anrê Phú Yên (chịu tử đạo năm 1644 và được giáo hoàng Gioan Phaolô II phong chân phước vào ngày 5 tháng 3 năm 2000) về cất giữ tại trụ sở trung ương dòng Tên ở Roma.
Quý Dậu 1693
Ngày 1.7.1693, Đức cha Deydier (Hội Thừa sai Paris), đại diện Tông tòa Đông Đàng Ngoài (nay là giáo phận Hải Phòng), qua đời. Sau đó, vào năm 1696, Tòa Thánh đặt các giám mục xuất thân từ dòng Đa Minh đảm nhiệm đại diện Tông tòa, bắt đầu từ Đức cha Raimondo Lezzoli, O.P.
THẾ KỶ 18
Ất Dậu 1765
– Dòng Thánh Augustinô kết thúc hoạt động truyền giáo tại VN, sau hơn 60 năm (1701–1765), với 15 vị thừa sai – trong đó có giám mục Ilario Costa di Gesu (1735–1754), 6 linh mục Việt Nam và 2 linh mục khác (người Bồ Đào Nha), hoạt động tại khu vực Cửa Hàn (Đà Nẵng), làm tuyên úy cho cộng đoàn nhỏ bé người Bồ Ðào Nha phần nhiều là những thương gia đi qua đi lại, hoặc trú ngụ tại đó từ trước năm 1596.
– Năm Ất Dậu 1765, chúa Trịnh Doanh (1740–1767) ra sắc chỉ cấm đạo (trước đó, năm Giáp Tuất 1754, viên chúa Trịnh này đã có sắc chỉ cấm đạo).
– Năm sinh của thánh Đa Minh Xuân (Dominicus Henarès), giám mục, tử đạo. Ngài sinh năm 1765 tại Baena, Cordova, Tây Ban Nha, dòng Ða Minh. Ngài là giám mục phụ tá Đại diện Tông tòa Ðông Ðàng Ngoài, bị xử trảm ngày 25.6.1838 tại Nam Ðịnh dưới đời vua Minh Mạng, được Ðức Lêô XIII phong chân phước ngày 27.5.1900, và Đức Gioan Phaolô II tôn phong hiển thánh ngày 19.6.1988.
THẾ KỶ 19
Ất Dậu 1825
Vua Minh Mạng truyền cho quan Biện hiệp ra chỉ dụ riêng cho quan trấn Quảng Nam về việc phải tăng cường ngăn chặn việc truyền bá đạo Công giáo. Nội dung chỉ dụ:
“Quan Biện Hiệp vâng lệnh hoàng thượng truyền rằng: Tà đạo của người Âu châu làm hư hỏng lòng người. Từ lâu các thuyền Âu châu khi đến buôn bán đã để lại nhiều thừa sai trong nước. Những đạo trưởng này dụ dỗ và làm hư hỏng nhân dân, đồng thời sửa đổi và phá đổ các tập tục tốt lành trong nước. Như thế không phải là một cái họa cho chúng ta sao? Chính vì thế, chúng ta cần phải chống lại tệ nạn này để dẫn đưa nhân dân trở về chính đạo. Vì lẽ đó, chúng tôi, các quan hằng tuân giữ các lệnh truyền của hoàng thượng, gửi cho quan trấn thủ Quảng Nam chỉ dụ của vua để khi có tàu Pháp đến thì phải chú tâm xem xét cẩn thận. Hơn nữa, cũng phải canh chừng cẩn thận các quan ải trên núi, dưới đất hay cửa biển hầu ngăn chặn bất cứ đạo trưởng Âu châu nào lén lút xâm nhập để họ không thể trà trộn trong dân chúng và gieo rắc tà đạo trong đất nước. Các đạo trưởng này kế tiếp nhau không gián đoạn và coi đó như là một việc thông thường. Minh Mệnh năm thứ sáu, ngày 1, tuần trăng thứ nhất (12.2.1825)”.
Đinh Dậu 1837
Thánh Gioan Tân (Jean Charles Cornay), sinh năm 1809 tại Loudun, Poitiers, Pháp, linh mục thuộc Hội Thừa sai Paris, địa phận tông tòa Tây Ðàng Ngoài, bị xử lăng trì ngày 20.9.1837 (đời vua Minh Mạng) tại Sơn Tây.
Ất Dậu 1885
Đức Mẹ hiện ra che chở các tín hữu Trà Kiệu trong hai ngày 10–11.9.1885 (Ất Dậu) giữa cơn nguy biến diễn do Văn Thân gây ra. Về biến cố này, trang tin điện tử của giáo phận Đà Nẵng viết:
“Trà Kiệu có một bề dày lịch sử cả đạo lẫn đời. Về lịch sử dân sự, Trà Kiệu nguyên là kinh đô Simhapura (Sư Tử Thành) của Vương quốc Champa vào cuối thế kỷ II sau Công nguyên. Nhiều hiện vật khảo cổ cũng đã được phát hiện dưới lòng đất trong khu vực này; mà hiện nay, một số tượng đá thời vương quốc Champa đã được thu tập và hình thành một “bảo tàng Chămpa” nho nhỏ tại Nhà xứ Trà Kiệu, do công của Cha Antôn Nguyễn Trường Thăng (Quản xứ Trà Kiệu từ 1975–1989).
Về lịch sử giáo hội Công Giáo, Trà Kiệu và cộng đoàn Dân Chúa Trà Kiệu được biết đến như là “chứng nhân đức tin” trong thời kỳ bách hại, với những cuộc tấn công không ngừng nghỉ của lực lượng “Văn Thân” nhằm triệt phá xứ đạo này. Cũng chính trong bối cảnh bị bách hại đó, Trà Kiệu đã được biết đến vì được “ơn lạ” của Thiên Chúa: Đức Mẹ đã hiện ra để che chở và giải thoát đoàn con cái Chúa đang trong cơn nguy biến (ngày 10–11.9.1885). Và cũng từ biến cố này, một ngôi đền được dựng nên trên ngọn đồi Bửu Châu (cách nhà thờ Xứ Trà Kiệu khoảng 500 m) để kính nhớ và dâng tiến Đức Trinh Nữ Maria với tước hiệu “Đức Mẹ Phù Hộ Các Giáo Hữu”. Năm 1958, Đức cha Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi, đương nhiệm giám mục Quy Nhơn, đã chọn Trà Kiệu làm Trung tâm Thánh Mẫu của giáo phận Quy Nhơn và đã tổ chức Đại hội Thánh Mẫu đầu tiên tại Trà Kiệu từ ngày 31.1.1959 đến ngày 2.2.1959.
Bốn năm sau (18.1.1963), khi tân giáo phận Đà Nẵng được thành lập, tách khỏi giáo phận Mẹ Quy Nhơn, Trà Kiệu đã trở thành Trung tâm Thánh Mẫu của tân giáo phận. Đại hội Thánh Mẫu lần II được tổ chức từ ngày 29/5–31.5.1971 cũng do Đức cha Phêrô–Maria Phạm Ngọc Chi, lúc này là giám mục Chính tòa giáo phận Đà Nẵng. Từ đó, hằng năm vào ngày Lễ Đức Mẹ Đi Viếng 31.5, như một thông lệ, giáo dân từ các nơi tìm đến với Mẹ Trà Kiệu. Đại hội Thánh Mẫu Trà Kiệu lần III chính thức được tổ chức nhân dịp kỷ niệm 110 năm Đức Mẹ hiện ra vào chính ngày 31/5 với khoảng 35.000 khách hành hương tham dự. Kể cả trong thời kỳ khó khăn, vẫn có những kỳ Đại Hội tiếp theo: lần IV (năm 1997), lần V (năm Thánh 2000) và hằng năm vẫn được tổ chức với lượng người tham dự mỗi năm một thêm đông. Mỗi kỳ đại hội, ngoài cuộc kiệu rước trọng thể cung nghinh Mẹ Trà Kiệu từ nhà thờ xứ xuống nhà thờ Núi, những buổi diễn nguyện tôn vinh Đức Mẹ và Thánh Lễ đại trào; cộng đoàn dân Chúa và khách hành hương lại có dịp sống gần Mẹ và sống gần nhau trong tâm tình tạ ơn, khẩn nguyện và quyết sống trọn vẹn đời sống chứng tá đức tin, như các bậc tiền nhân anh dũng. Hiện nay, ngoài dịp đại hội hằng năm (bắt đầu từ chiều 30/5 và kết thúc vào chiều 31/5), mọi ngày trong năm đều có khách hành hương từ mọi nơi đến viếng Mẹ, đặc biệt từ đầu tháng 5 đến hết tháng 8 dương lịch”.
Tân Dậu 1861
Diễn ra 9 cuộc tử đạo (đời vua Tự Ðức) của các thánh:
– Thánh giám mục Gioan Ven (Jean Théophane Vénard), sinh năm 1829 tại St. Loup-sur-Thouet, Poitiers, Pháp, thuộc Hội Thừa sai Paris, đại diện Tông tòa Tây Ðàng Ngoài, bị xử trảm ngày 2.2.1861 tại Ô Cầu Giấy (Hà Nội).
– Thánh Phêrô Nguyễn Văn Lựu, sinh năm 1812 tại Gò Vấp, Gia Ðịnh, linh mục địa phận Tông tòa Tây Đàng Trong, bị xử trảm ngày 7.4.1861 tại Mỹ Tho.
– Thánh Giuse Tuân, sinh năm 1821 tại Trần Xá, Hưng Yên, linh mục dòng Ða Minh, bị xử trảm ngày 30.4.1861 tại Hưng Yên.
– Thánh Gioan Ðoàn Trịnh Hoan, sinh năm 1798 tại Kim Long, Thừa Thiên, linh mục, bị xử trảm ngày 26.5.1861 tại Ðồng Hới (Quảng Bình).
– Thánh Matthêu Nguyễn Văn Phượng (Ðắc), sinh năm 1808 tại Kẻ Lái, Quảng Bình, trùm họ, bị xử trảm ngày 26.5.1861 tại Ðồng Hới (Quảng Bình).
– Thánh Phêrô Bình (Petrus Almato), sinh năm 1830 tại San Feliz Saserra, Tây Ban Nha, linh mục dòng Ða Minh, phục vụ tại địa phận Tông tòa Ðông Ðàng Ngoài, bị xử trảm ngày 1.11.1861 tại Hải Dương.
– Thánh giám mục Vinh (Berrio Ochoa), sinh năm 1827 tại Elorrio (Vizcaya), Tây Ban Nha, dòng Ða Minh, đại diện Tông tòa Ðông Ðàng Ngoài, bị xử trảm ngày 1.11.1861 tại Hải Dương.
– Thánh giám mục Thể (Etienne Théodore Cuénot), sinh năm 1802 tại Belieu, Besançon, Pháp, thuộc Hội Thừa Sai Paris, đại diện Tông tòa Ðông Ðàng Trong, chết rũ tù ngày 14.11.1861 tại Bình Ðịnh.
– Thánh Giuse Nguyễn Duy Khang, sinh năm 1832 tại Trà Vi, Nam Ðịnh, thầy giảng dòng ba Ða Minh, bị xử trảm ngày 6.12.1861 tại Hải Dương.
THẾ KỶ 20
Kỷ Dậu 1909
– Ngày 11.4.1909, Ðức giáo hoàng Piô X phong chân phước cho 15 vị Tử đạo Việt Nam (xếp theo năm tử đạo):
* Dưới đời vua Thiệu Trị:
+ Inê Lê Thị Thành (Ðê), sinh năm 1781 tại Bái Ðền, Thanh Hóa, giáo dân, chết rũ tù ngày 12.7.1841 tại Nam Ðịnh.
+ Phêrô Phạm Khanh, sinh năm 1780 tại Hòa Duệ, Nghệ An, linh mục, bị xử trảm ngày 12.7.1842 tại Hà Tĩnh.
* Dưới đời vua Tự Đức:
+ Giuse Nguyễn Văn Lựu, sinh năm 1790 tại Cái Nhum, Vĩnh Long, trùm họ, chết rũ tù ngày 2.5.1854 tại Vĩnh Long.
+ Anrê Nguyễn Kim Thông (Năm Thuông), sinh năm 1790 tại Gò Thị, Bình Ðịnh, Thầy giảng, chết rũ tù ngày 15.7.1855 tại Mỹ Tho.
+ Lôrensô Nguyễn Văn Hưởng, sinh năm 1802 tại Kẻ Sài, Hà Nội, linh mục, bị xử trảm ngày 13.2.1856 tại Ninh Bình.
+ Phaolô Lê Bảo Tịnh, sinh năm 1793 tại Trịnh Hà, Thanh Hóa, linh mục, bị xử trảm ngày 6.4.1857 tại Bảy Mẫu (Nam Định).
+ Micae Hồ Ðình Hy, sinh năm 1808 tại Như Lâm, Thừa Thiên, giáo dân, Quan Thái Bộc, bị xử trảm ngày 22.5.1857 tại An Hòa (Huế).
+ Phanxicô Trần Văn Trung, sinh năm 1825 tại Phan Xã, Quảng Trị, giáo dân, Cai đội, bị xử trảm ngày 6.10.1858 tại An Hòa (Huế).
+ Phaolô Lê Văn Lộc, sinh năm 1830 tại An Nhơn, Gia Ðịnh, linh mục, bị xử trảm ngày 13.2.1859 tại Gia Ðịnh.
+ Emmanuel Lê Văn Phụng, sinh năm 1796 tại Ðầu Nước, Cù Lao Giêng, giáo dân, trùm họ, bị xử trảm ngày 31.7.1859 tại Châu Ðốc (An Giang).
+ Phêrô Ðoàn Công Quý, sinh năm 1826 tại Búng, Gia Ðịnh (nay thuộc Bình Dương), linh mục, bị xử trảm ngày 31.7.1859 tại Châu Ðốc (An Giang).
+ Phêrô Bắc (Pierre Franҫois Neron), sinh năm 1818 tại Bornay, Saint–Claude, Pháp, Hội Thừa sai Paris, linh mục địa phận tông tòa Tây Ðàng Ngoài, bị xử trảm ngày 3.11.1860 tại Sơn Tây.
+ Matthêu Nguyễn Văn Phượng (Ðắc), sinh năm 1808 tại Kẻ Lái, Quảng Bình, trùm họ, bị xử trảm ngày 26.5.1861 tại Ðồng Hới (Quảng Bình).
+ Ðức cha Thể (Etienne Théodore Cuénot), sinh năm 1802 tại Belieu, Besançon, Pháp, giám mục Hội Thừa Sai Paris, địa phận tông tòa Ðông Ðàng Trong, chết rũ tù ngày 14.11.1861 tại Bình Ðịnh.
+ Giuse Nguyễn Duy Khang, sinh năm 1832 tại Trà Vi, Nam Ðịnh, Thầy giảng dòng ba Ða Minh, bị xử trảm ngày 6.12.1861 tại Hải Dương.
– Ngày 12.6.1909, ba linh mục của giáo phận Vinh bị chính quyền thực dân Pháp bắt, đày đi Côn Đảo vì tham gia chống Pháp: Đậu Quang Lĩnh, thư ký Toà giám mục; Nguyễn Thần Đồng, chính xứ Chính toà Vinh; Nguyễn Văn Tường, quản lý Nhà chung Xã Đoài.
Quý Dậu 1933
– Ngày 10.1.1933, Đức giáo hoàng Piô XI bổ nhiệm linh mục Gioan Baotixita Nguyễn Bá Tòng (Địa phận tông tòa Sài Gòn) làm giám mục phó đại diện Tông tòa Phát Diệm, và ngày 11.6.1933, đã diễn ra lễ tấn phong giám mục tại Ðền thánh Phêrô, do Ðức giáo hoàng Piô XI chủ phong.
– Đức cha Nguyễn Bá Tòng trở thành vị giám mục Việt Nam tiên khởi, sau đúng 400 năm Tin Mừng được rao giảng tại Việt Nam (1533–1933).
Ất Dậu 1945
– Ngày 14.6.1945, Tòa Thánh bổ nhiệm linh mục An­selmô Lê Hữu Từ, bề trên Ðan viện Xitô Phước Sơn (Nho Quan), làm giám mục đại diện Tông tòa Phát Diệm. Ngài là vị giám mục thứ năm người Việt Nam, sau bốn vị trước đó: Đức cha G.B. Nguyễn Bá Tòng (1933), Đức cha Đa Minh Maria Hồ Ngọc Cẩn (1935), Đức cha Phêrô Martinô Ngô Đình Thục (1938), Đức cha Gioan Maria Phan Đình Phùng (1940).
– Ngày 29.10.1945, ngài được Đức cha G.B. Nguyễn Bá Tòng (chủ phong) và Đức cha Đa Minh Maria Hồ Ngọc Cẩn (phụ phong) tấn phong giám mục tại Phát Diệm.
Đinh Dậu 1957
– Sau 169 năm rời khỏi Việt Nam (1788–1957), năm 1957, các tu sĩ Dòng Tên được Giáo hội Việt Nam mời trở lại. Ngày 13.9.1958, Dòng Tên nhận trách nhiệm điều khiển Giáo hoàng Học viện Thánh Piô X tại Ðà Lạt, đồng thời khuếch trương nhiều hoạt động khác nhau trong các lãnh vực văn hóa xã hội.
– Ngày 5.7.1957, Đức giáo hoàng Piô XII thiết lập giáo phận Tông tòa Nha Trang, và đặt Đức cha Paul Raymond– Marie–Marcel Piquet, thuộc Hội Thừa sai Paris, làm đại diện Tông tòa tiên khởi. Giáo phận mới được tách từ giáo phận Tông tòa Quy Nhơn (gồm hai tỉnh Khánh Hòa và Ninh Thuận) và từ giáo phận Tông tòa Sài Gòn (gồm hai tỉnh Bình Thuận và Bình Tuy).
Kỷ Dậu 1969
Dòng Phanxicô Việt Nam được nâng lên hàng Tỉnh dòng, sau 40 năm được thành lập tại Việt Nam (1929–1969).
Tân Dậu 1981
– Ngày 24.3.1981, Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II bổ nhiệm linh mục Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Sang, chính xứ nhà thờ Chính tòa Hà Nội, làm giám mục phụ tá Tổng giáo phận Hà Nội.
– Ngày 26.3.1981, Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II bổ nhiệm linh mục Phêrô Trần Thanh Chung, nguyên giám đốc Tiểu chủng viện Thừa sai Kon Tum, làm giám mục phó giáo phận Kon Tum.
– Ngày 1.5.1981, Hội đồng Giám mục họp thường niên tại Hà Nội.
– Ngày 19.6.1981 Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II bổ nhiệm linh mục Giuse Trinh Chính Trực, chính xứ nhà thờ Chính tòa Ban Mê Thuột, làm giám mục phó giáo phận Ban Mê Thuột.
– Ngày 15.12.1981, Ðức cha Giuse Nguyễn Thiện Khuyến, giám mục phó giáo phận Phát Diệm từ trần, thọ 81 tuổi.
Quý Dậu 1993
– Ngày 1.2.1993, phái đoàn Toà Thánh, do Đức ông Claudio Celli dẫn đầu, sang Việt Nam.
– Ngày 22.3.1993, Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II bổ nhiệm linh mục Gioan B. Phạm Minh Mẫn, giám đốc Đại chủng viện Thánh Quý (Cần Thơ), làm giám mục phó giáo phận Mỹ Tho.
– Ngày 18.10.1993, Đại hội Thường niên HĐGMVN lần đầu tiên họp tại Sài Gòn.
THẾ KỶ 21
Ất Dậu 2005
– Ngày 19.2.2005, Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II bổ nhiệm linh mục Phanxicô Xaviê Lê Văn Hồng, chính xứ Phú Hậu (Huế), làm giám mục phụ tá Tổng giáo phận Huế. Ngài là vị giám mục Việt Nam cuối cùng được Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II bổ nhiệm, vì gần hai tháng sau, ngày 2.4.2005, Đức giáo hoàng qua đời.
– Ngày 8.11.2005, Đức tân giáo hoàng Bênêđictô XVI bổ nhiệm linh mục Giuse Võ Đức Minh, chính xứ Chính tòa Đà Lạt, làm giám mục phó giáo phận Nha Trang. Ngài là vị giám mục Việt Nam đầu tiên được bổ nhiệm dưới thời Đức tân giáo hoàng Bênêđictô XVI (được bầu làm giáo hoàng ngày 19.4.2005).

––––––––––––––––––––––––
(*) Bài đã đăng trên Bản tin Hiệp Thông số 98 của Hội đồng Giám mục Việt Nam
[1] Quyển thứ 33 của Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục – Chính Biên,
chép sử “Từ Quý Mão, năm Cảnh Trị thứ nhất (1633)
đến Ất Mão, Lê Gia Tông, năm Đức Nguyên thứ hai (1675), gồm 13 năm”.
[2] Sách Dã Lục: sách do tư nhân, chứ không do sử quan viết (chính biên).
[3] Nam Chân và Giao Thủy nay thuộc tỉnh Nam Định.

Thành Thi
Nguồn: http://hdgmvietnam.org/mung-xuan-dinh-dau-2017-nhung-nam-dau-trong-lich-su-giao-hoi-tai-viet-nam/8566.63.8.aspx