Ý cầu nguyện tháng

- Ý CẦU NGUYỆN THÁNG 10:

Cầu cho sứ vụ của người giáo dân trong Giáo Hội:
Xin cho các Kitô hữu giáo dân, cách riêng là phụ nữ, khi đã lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, có thể tham gia nhiều hơn vào các cơ quan hữu trách của Giáo Hội.

Kitô hữu giáo dân hôm nay và ngày mai


KITÔ HỮU GIÁO DÂN 
HÔM NAY VÀ NGÀY MAI

Lm. Giuse Tạ Huy Hoàng (Minh Triết Cuộc Đời)
Tổng Thư Ký UB/GIÁO DÂN/HĐGM/VN

Dẫn vào

Giờ giáo dân đã điểm. Làm một Kitô hữu, KITÔ HỮU GIÁO DÂN HÔM NAY VÀ NGÀY MAi bao giờ là một việc dễ dàng, ngày xưa cũng thế mà ngày nay cũng vậy. Muốn theo Chúa Kitô cần phải can đảm chọn lựa dứt khoát, thường thường là phải lội ngược dòng…[1]

Đề tài Kitô hữu giáo dân hôm nay và ngày mai muốn nêu bật vai trò của giáo dân hiện nay và nhất là trong tương lai: (1) Kitô hữu giáo dân “xưa-nay”, (2) Kitô hữu giáo dân với ơn gọi nên “thánh giữa đời”, (3) Khả năng tham dự và làm chứng của giáo dân, (4) Một hàng ngũ giáo dân trưởng thành: (a) Nhiệm vụ đào tạo giáo dân, (b) Cách thức đào tạo giáo dân, (c) Tố chất cần có: “Bác ái trong mọi sự”, và (5) Những điều mong ước.

Bài viết muốn đặt mình vào tầm nhìn chung: trong gia đình Giáo hội, được trù định phải chia sẻ cách tích cực hơn những công việc của Giáo hội, giáo dân sẽ trở nên năng động hơn. Trở nên năng động hơn trong Giáo hội, giáo dân sẽ sở đắc những nhân tố với năng cách thích hợp hơn và nhờ đó, giáo dân sẽ sẵn sàng với lời mời gọi chia sẻ nhiều công việc trọng yếu hơn nữa trong Giáo hội hiện tại và tương lai.

Kitô hữu giáo dân “xưa-nay”

Cuối thế kỷ I, danh xưng giáo dân lần đầu tiên được sử dụng trong khuôn khổ nội dung của Cựu ước. Rồi đến cuối thế kỷ thứ II, đầu thế kỷ thứ III, những “giáo dân” đầu tiên xuất hiện. Đây là nhóm nam tín hữu ưu tú, đã lãnh nhận bí tích thánh tẩy và chỉ có một vợ.[2]Trong thời gian này, phụ nữ vẫn chưa được xếp vào thành phần giáo dân![3]Mãi đến thế kỷ thứ IV, từ ngữ giáo dân mới minh nhiên áp dụng cho nữ giới.

Đến thế kỷ thứ V, việc phân loại chi tiết các thành phần dân Chúa được hình thành và ổn định mãi cho đến ngày nay: giáo dân là tất cả những Kitô hữu không có chức thánh. Những Kitô hữu có chức thánh là giáo sĩ. Nghĩa là, một cộng đoàn dân Chúa gồm có giáo sĩ và giáo dân (cũng có thể nói thêm rằng: trong giới tu sĩ có “tu sĩ giáo sĩ” và “tu sĩ giáo dân”).

Để phân biệt với hàng giáo sĩ, từ ngữ giáo dân tượng trưng cho một thành phần rõ rệt của dân Chúa. Nền thần học về giáo dân tạo ra cho giáo dân một thế đứng, thúc giục giáo dân làm triển nở vị trí riêng của mình, bản sắc cá biệt của mình. Việc phục hưng hàng ngũ giáo dân của thời đại ngày nay còn tạo ra những cộng sự viên, những người đồng trách nhiệm cho hàng giáo sĩ đang thiếu hụt.[4]

Thật vậy, ngay sau Công đồng Vaticanô II, người giáo dân đã có chỗ đứng đáng kể trong các sinh hoạt của Giáo hội. Vai trò của họ được cải thiện. Nhiều giáo xứ lên tiếng mời gọi dân xứ cộng tác vào các công việc mục vụ mà trước đây họ chưa từng được mời như thế. Công đồng đã góp phần rất lớn để người giáo dân được chuẩn bị sống sát hơn với tinh thần Phúc âm.

Hiến mục vụ về Giáo hội trong thế giới ngày nayđưa ra những soi dẫn cụ thể cho đời sống đạo của người Kitô hữu thời đại hôm nay.[5]Theo đó, với tinh thần trách nhiệm, Giáo hội mời gọi người Công giáo đối thoại và hợp tác với mọi hạng người trong xã hội.

Trong các hội đồng, hội đoàn, người giáo dân cần tự nâng đỡ nhau và giúp nhau huấn luyện cho nhau, nâng cao trình độ cho nhau, và cùng nhau sống ơn gọi làm người Kitô hữu giáo dân của mình, góp phần điều hành giáo xứ, đồng cảm, chia sẻ, thực hiện những công tác mục vụ như: thăm bệnh nhân, tiếp xúc với người không cùng niềm tin Công giáo, ủy lạo người nghèo, nâng đỡ người khô khan yếu đuối, bảo trì, tu dưỡng, làm vệ sinh những nơi thờ phượng, giữ xe cho người tham dự thánh lễ....

Ngoài ra, một số tín hữu giáo dân còn tham gia vào những công việc mà trước đây dường như chỉ giới giáo sĩ mới có khả năng làm: suy tư và nghiên cứu thần học, dạy triết học, thần học, chú giải Thánh kinh, cộng tác vào việc huấn luyện, đào tạo chủng sinh, tu sĩ, viết sách báo thần học, hợp tác với các thừa tác viên có chức thánh để góp phần chăm sóc mục vụ cho dân, nghiên cứu và đề nghị những hướng đi cho giáo hội địa phương.[6]

Còn nhớ, Liên Hội đồng Giám mục Á châu (FABC) năm 2000 tại Thái Lan đã nhắc lại một tư tưởng thường xuất hiện trong các văn kiện thần học Á châu: phải phát huy những cơ cấu tham gia (participative structures) trong Giáo hội, ngõ hầu các tài năng và chuyên môn của giáo dân nam nữ có cơ hội được sử dụng đến.

Có sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong Giáo hội và nhờ vào ân sủng các bí tích củng cố, giáo dân dấn thân vào cuộc sốngđạo đời,góp phần thực hiện sứ mệnh của Giáo hội, đem Tin mừng của Đức Giêsu áp dụng vào các lãnh vực nghề nghiệp: chính trị, giáo dục, y tế, phương tiện truyền thông và lao động. Muốn vậy, giáo dân cũng phải sống linh đạo người phục vụ, để cả giáo sĩ lẫn giáo dân biết chung sức làm việc với nhau, giữ những vai trò đặc thù của mình, trong sứ mệnh chung của Giáo hội.[7]

Riêng tại Việt Nam, ngay từ buổi đầu đón nhận đức tin, giáo dân đã đóng một vai rất đáng ghi nhớ, đã viết những trang vẻ vang trong lịch sử Giáo hội Việt Nam. Việc tông đồ giáo dân là việc thiết yếu mà Giáo hội Việt Nam đã ra sức thực hiện dưới nhiều hình thức linh hoạt hợp với hoàn cảnh của mình.

… ghi nhận sự hợp tác của anh chị em giáo dân. Nhờ được củng cố và đào sâu đức tin qua việc học hỏi và sống Lời Chúa cũng như nỗ lực canh tân đời sống, anh chị em đã quảng đại chia sẻ vật chất và tinh thần cho các điểm truyền giáo cũng như có mặt trong mọi lãnh vực mà xã hội cho phép.[8]

Sắc lệnh về tông đồ giáo dânđã bắt đầu với lời xác định rằng: “… các Kitô hữu giáo dân giữ một phận vụ cá biệt và thiết yếu trong sứ mệnh của Giáo hội”.[9]Công đồng tận lực kêu mời tất cả giáo dân hãy quảng đại, mau mắn đáp lại tiếng Chúa Kitô mời gọi, hưởng ứng đà thúc đẩy của Chúa Thánh Thần mà tích cực dấn thân loan báo Tin mừng trong sinh hoạt của các phong trào, các cộng đoàn, các đoàn hội giáo dân.[10]

Hiến chế mục vụ về Giáo hội trong thế giới ngày nay đã lên tiếng phàn nàn tình trạng cách biệt giữa đức tin tuyên xưng và cuộc sống thường nhật của một số Kitô hữuchính là một trong những sai lầm trầm trọng của thời đại, đồng thời cũng khẳng định:

Giữa những phận vụ sinh động cần được thi hành trong đời sống Giáo hội toàn thể, không những người giáo dân có sứ mạng đưa tinh thần Kitô giáo thấm đượm vào trong thế giới, mà còn được kêu gọi để làm chứng cho Đức Kitô trong mọi hoàn cảnh, ngay giữa lòng cộng đoàn nhân loại.[11]

Thật vậy, không chỉ giáo sĩ, tu sĩ phải đặt Chúa Giêsu làm trọng tâm đời mình và tích cực trong công cuộc truyền giáo, mà giáo dân cũng được kêu gọi để làm chứng cho Đức Kitô trong mọi hoàn cảnh, ngay giữa lòng cộng đoàn nhân loại.

Mới đây, chính Đức Giáo hoàng Phanxicô nói với giáo dân hãy vượt ra khỏi tháp ngà của mình.[12]Ngài tin rằng Chúa Thánh Thần sẽ soi sáng cho các Kitô hữu, cách riêng những Kitô hữu giáo dân của thời đại hôm nay, biết khiêm tốn bước vào mầu nhiệm sống và can đảm ra khỏi nguy hiểm chết người của sự tự đóng kín chính mình, trong tường rào của mình.

Ngày hôm nay, thật đau đớn khi chuyện một người đàn ông vô gia cư trên đường phố bị chết cóng lại không được coi là tin tức. Tin tức toàn nói về những chuyện giật gân. Lại một xì căng đan! Vâng, đó là tin tức. Hãy nghĩ xem ngay trong giờ này, có rất nhiều trẻ em không có gì để ăn, nhưng đó không được coi là tin tức. Điều này mới là nghiêm trọng! Thật là nghiêm trọng! Chúng ta không thể im lặng về việc này.[13]

Thật là nguy hiểm khi chúng ta khóa mình trong giáo xứ của chúng ta, với bạn bè của chúng ta, trong phong trào của chúng ta, với những người nghĩ giống như chúng ta. Nhưng anh chị em biết những gì sẽ xảy ra khi Giáo hội đóng kín lại? Giáo hội bị bệnh.[14]

Với ơn gọi nên “thánh giữa đời”

Sống hiệp thông với Giáo hội để chu toàn sứ mệnh, giáo dân phải thực sự nên thánh theo ơn gọi và thể cách riêng của mình, biết áp dụng những ân huệ của Thánh Thần để phục vụ tha nhân: trách nhiệm mục vụ trong giáo xứ,[15] tác vụ loan báo Tin mừng cho lương dân….[16]

Ðức Giáo hoàng Gioan Phaolô II quả quyết giáo dân cũng như giáo sĩ, có bổn phận thông dự hoàn toàn vào sứ mệnh tông đồ của Giáo hội, giáo dân cũng cần phải được đào tạo chu đáo hơn cả về giáo lý đức tin lẫn kỹ năng sống đạo và phải thật sự sẵn sàng để làm chứng cho Tin mừng:

Tôi tha thiết kêu gọi hết thảy mọi giáo hữu, mục tử cũng như giáo dân, hãy mãi mãi kiên trì giữ gìn cho sống động cảm thức về Giáo hội, luôn luôn ý thức mình là thành phần của Giáo hội Chúa Giêsu Kitô, được thông dự vào mầu nhiệm hiệp thông của Giáo hội, vào sức năng động của sứ mệnh tông đồ Giáo hội đảm nhận.[17]

Công đồng Vaticanô II đã đưa ra ý hướng căn bản và đầy đủ về người Kitô hữu giáo dân đối với Giáo hội. Theo đó, ơn gọi đặc biệt của giáo dân là: “Tìm kiếm nước Thiên Chúa trong khi quản trị các công việc trần thế mà họ sắp xếp theo ý Chúa”. Hiến chế tín lý về Giáo hội còn thêm:

Danh hiệu giáo dân có nghĩa là tất cả các Kitô hữu không thuộc thành phần chức thánh hay bậc tu trì được Giáo hội công nhận, nghĩa là các Kitô hữu đã được rửa tội để tháp nhập vào Thân Thể Đức Kitô, được nhập tịch dân Chúa, được trở thành kẻ tham gia theo cách của mình vào chức vụ tư tế, chức vụ rao giảng lời Chúa và chức vụ vương giả của Chúa Kitô, họ là những người thi hành sứ mệnh của toàn dân Kitô hữu trong Giáo hội và giữa trần thế theo nhiệm vụ riêng của mình.[18]

Chính bí tích thánh tẩy đưa người tín hữu giáo dân vào việc cùng chia sẻ trách nhiệm với tất cả các vị thừa tác viên khác (giáo sĩ, tu sĩ). Tính chất đời sống làm người Kitô hữu phải là nền tảng của sự bình đẳng giữa những ai đã lãnh nhận bí tích thánh tẩy trong Đức Kitô; nghĩa là giữa mọi thành phần dân Chúa. Nhờ phẩm giá chung do bí tích thánh tẩy, người tín hữu giáo dân là người đồng trách nhiệm với tất cả các vị thừa tác viên khác, tu sĩ hay giáo sĩ, đối với sứ mệnh của Giáo hội.

Công đồng Vaticanô II và huấn quyền hậu công đồng nhiều lần khẳng định: mọi tín hữu (giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân) đều có chung một ơn gọi nên thánh nhưng mỗi ơn gọi đều có một chiều kích thừa tác riêng, để làm chứng cho Đức Kitô, để phục vụ việc xây dựng nước trời. Vì thế, đời sống của mọi thành phần Giáo hội nói chung đều có ảnh hưởng đến lãnh vực trần thế, nhưng người giáo dân có một hình thái ảnh hưởng đặc biệt hơn. Sống giữa đời là ơn gọi riêng của mình, Kitô hữu giáo dân có thể dấn thân vào đủ mọi nghĩa vụ và công tác của trần thế. Là những con người đang sống hoà mình giữa thế giới bằng muôn vàn hình thức hiện diện, Kitô hữu giáo dân tạo nên những tương giao xã hôi phong phú.

Theo đó, tính cách trần thế phải được hiểu dưới ánh sáng của tác động tạo dựng và cứu chuộc của Thiên Chúa, Đấng đã trao phó trần thế này cho con người để con người tham gia vào việc tạo dựng, để con người góp phần giải thoát chính mình và những thụ tạo khác khỏi ảnh hưởng của tội lỗi, để con người thánh hóa mình trong đời sống hôn nhân hoặc độc thân, trong gia đình, trong chức nghiệp và trong các hoạt động xã hội. Nói cách khác, … giáo dân được đặc biệt mời gọi giúp Giáo hội hiện diện và hoạt động trong tất cả những nơi và tất cả hoàn cảnh mà Giáo hội có thể trở thành muối trần gian nhờ sự trung gian của giáo dân.[19]

Như vậy, toàn thể tín hữu Chúa, giáo dân và giáo sĩ quả là có những điểm khác nhau, song hai bên đều chia sẻ cùng một ơn gọi nên thánh và cùng một sứ mệnh chung là xây dựng nước trời, dẫu rằng ơn gọi chung “nên thánh” bao gồm nhiều yếu tố riêng.

Còn nhớ, trong giờ kinh Truyền tin Chúa nhật ngày 14 tháng 11 năm 2005, Đức Giáo hoàng Bênêđíctô XVI đã nói với khách hành hương tại Rôma như sau:

Tôi muốn nhắc rằng Chúa nhật vừa qua tại Thánh đường Vicenze, một bà mẹ gia đình đã được phong chân phước, bà Eurosia Fabris, một gương mẫu đời sống Kitô hữu trong bậc sống giáo dân.

Trong huấn từ ấy, Đức Bênêđictô XVI còn nói rõ:

Công đồng Vaticanô II đã đặc biệt chú ý đến vai trò của các tín hữu giáo dân, khi dành cho họ cả một chương (chương 4) trong Hiến chế tín lý về Giáo hội để xác định ơn gọi và sứ mệnh của họ được cắm rễ trong bí tích thánh tẩy và thêm sức nhằm tìm kiếm Nước Thiên Chúa bằng cách làm các việc trần thế và xếp đặt chúng theo ý Thiên Chúa.[20]

Đồng thời Sắc lệnh về tông đồ giáo dân nhấn mạnh rằng “hoa quả của việc tông đồ tùy thuộc vào sự kết hiệp sống động của họ với Chúa Kitô”.[21]

Dù đa số giáo dân Việt Nam chưa ý thức được đầy đủ vị trí và vai trò của mình, cũng như chưa hoàn toàn đáp ứng được những yêu cầu của Công đồng Vaticanô II, song tín hữu giáo dân Việt Nam cũng đã cùng với các tín hữu giáo sĩ Việt Nam mà nỗ lực sống Tin mừng trong hầu hết mọi nơi chốn trên quê hương Việt Nam. Những nhân tố tích cực đã nổi lên và ngày càng nhiều. Giáo dân đã khởi xướng và thực hiện một số công việc trong khả năng của mình để cùng nhau làm sống động hơn chính đức tin của mình.

Nhiều nhóm giáo dân đã tổ chức được các lớp giáo lý, chia sẻ lời Chúa, đảm đương tốt các hội đoàn Công giáo tiến hành. Có những giáo dân rất năng động trong các tổ chức xã hội; có những giáo dân đã thành lập công ty tư nhân để tìm lợi nhuận giúp cho công việc bác ái. Quan trọng hơn, sự cộng tác mục vụ của giáo dân với các vị mục tử trong giáo xứ, giáo phận không phải là nhỏ. Cách chung, dẫu có sự không đồng bộ, ta có thể nói: chất lượng cũng như số lượng sự cộng tác mục vụ của giáo dân vẫn mỗi ngày một hơn.[22]

Khả năng tham dự và làm chứng nhân

Những thừa tác viên giáo dân làm chứng cho Đức Kitô ngay giữa lòng cộng đoàn nhân loại. Khả năng tham dự và làm chứng của giáo dân vẫn luôn tồn tại. Giáo dân thực hiện rất nhiều công tác tông đồ, đặc biệt là công cuộc truyền giáo. Hàng ngũ giáo dân có lợi thế rất lớn trong nhiều công tác mục vụ được ủy thác.

Thật vậy, Bộ giáo luật 1983 liệt kê nhiều nhiệm vụ giáo dân có thể đảm trách và thi hành: (1) tác vụ giúp lễ và tác vụ đọc sách,[23](2) tham gia công việc huấn giáo,[24](3) dạy các thánh khoa thần học với danh nghĩa chính thức,[25](4) làm chưởng ấn, lục sự,[26]quản lý trong giáo phận,[27](5) thẩm phán, cố vấn thẩm phán (phụ thẩm), dự thẩm, kiểm toán viên,[28](6) chưởng lý, bảo hệ viên,[29](7) thụ ủy.[30]

Giáo dân có thể làm: (1) nhà thừa sai,[31](2) thừa tác viên ngoại thường của bí tích thánh tẩy,[32](3) thừa tác viên Thánh Thể, đặt Mình Thánh Chúa,[33](4) thừa tác viên chủ trì hôn nhân (chứng hôn),[34]thừa tác viên cử hành nghi thức an táng và một số á bí tích.[35]
Trong giáo phận cũng như tại giáo xứ, giáo dân là những thành viên tích cực của hội đồng kinh tế,[36]chủ chốt trong hội đồng mục vụ.[37]Ngay tại giáo xứ, giáo dân có thể phối hợp tốt những công tác tông đồ dưới quyền điều phối, hướng dẫn của linh mục chánh xứ.

Nếu nơi nào không có linh mụcđảm trách, giáo dân có thể được ủy thác việc trông coi xứ đạo dưới quyền “một linh mục với các quyền hạn và năng quyền của một linh mục chánh xứ để điều khiển việc mục vụ”.[38]

Thật vậy, sự hiện diện của giáo dân trong các nhiệm vụ đa dạng kể trên chắc chắn đã, đang và sẽ làm thay đổi hình ảnh dư luận thường có về Giáo hội. Giáo dân “có khả năng thì có năng cách để được các chủ chăn mời đảm nhận các chức vụ…”[39]nói trên trong tinh thần tham gia, hiệp thông và đồng trách nhiệm.

Một hàng ngũ giáo dân trưởng thành

Trong các văn kiện của mình, Giáo hội tỏ ra rất ý thức về nhu cầu phải có thật nhiều (càng nhiều càng tốt, nếu chưa phải là tất cả) giáo dân trưởng thành. Các văn kiện ấy đã thực sự cố gắng trình bày cho thấy sự cấp thiết của vấn đề phải đào tạo một hàng ngũ giáo dân trưởng thành như là “dấu chỉ tuyệt hảo của Chúa Kitô giữa loài người”. Thật vậy, Giáo hội hết sức chú tâm đến việc đào tạo giáo dân:

Giáo hội chưa được thiết lập thực sự, chưa sống đầy đủ, cũng chưa là dấu chỉ tuyệt hảo của Chúa Kitô giữa loài người nếu như chưa có hàng giáo dân đích thực và nếu hàng giáo dân này chưa cùng làm việc với hàng giáo phẩm. Thật vậy, Phúc âm không thể đi sâu vào tinh thần, đời sống và sinh hoạt của một dân tộc nếu không có sự hiện diện linh hoạt của giáo dân.[40]

Sắc lệnh về hoạt động truyền giáo của Giáo hội mô tả tính trưởng thành đích thực của Giáo hội hệ tại việc giáo dân có được huấn luyện đủ khả năng và điều kiện thích hợp để làm việc với hàng giáo phẩm. Bởi lẽ, làm việc với hàng giáo phẩm không thuần tuý chỉ có nghĩa là làm việc dưới sự lãnh đạo, trong sự chỉ huy hoặc điều khiển của hàng giáo phẩm, mà còn là cùng suy nghĩ và hành động với các ngài để thực thi sứ mạng mà Chúa Kitô trao phó cho mọi thành phần dân Chúa trong Giáo hội.

Tông huấn Kitô hữu giáo dân số 45-49 nói rất rõ: mọi Kitô hữu (giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân)—người già người trẻ, kẻ bé kẻ lớn, thiện nam cũng như tín nữ—đều là những người thợ làm vườn nho của Thiên Chúa.

Vấn đề chỉ là sự khác biệt của tay nghề giữa những người thợ và vị trí của họ trong chính vườn nho. Khác vị trí là chuyện tất nhiên dễ hiểu (khách quan) nhưng kém tay nghề là chuyện cần xem lại chính mình (chủ quan). Người thợ cần có trình độ tay nghề cao để công việc của vườn nho được trôi chảy. Muốn có tay nghề cao thì không những phải học mà còn phải hành, phải rèn luyện.
Để có được hàng ngũ giáo dân trưởng thành, Giáo hội đã và vẫn đang rất quan tâm đến việc đào tạo, tốn nhiều công sức đầu tư cho việc huấn luyện, cầu nguyện và nuôi hy vọng người giáo dân sẽ sống đúng vai trò và vị trí thế mạnh của mình trong rất nhiều lãnh vực trần thế.

·      Nhiệm vụ đào tạo giáo dân

Chính Thiên Chúa mới là Đấng thực sự đào tạo nên các Kitô hữu đích thực. Chỉ một mình Đức Giêsu Kitô là Thầy, chỉ đạo, dạy bảo, hướng dẫn và rèn luyện con cái của Thiên Chúa.[41]Nhưng Đức Kitô cũng đã giao trách nhiệm đào tạo ấy cho các tông đồ. Vì thế đức giáo hoàng và các vị giám mục là những người được Thiên Chúa đặc biệt giao phó công việc giáo dục, đào tạo mọi thành phần dân Chúa trong phạm vi quyền hạn và trách nhiệm của mình. Đức giáo hoàng thì trong phạm vi Giáo hội toàn cầu, các giám mục thì trong phạm vi giáo phận của mình.

Tông huấn Kitô hữu giáo dân khẳng định:

Công cuộc giáo dục trước hềt là công việc của Giáo hội toàn cầu. Đức giáo hoàng giữ vai trò người giáo dục đầu tiên của giáo dân. Là người kế vị Thánh Phêrô, ngài cũng có sứ mệnh “củng cố anh em mình trong đức tin” bằng cách dạy dỗ tất cả mọi tín hữu những yếu tố thiết yếu trong ơn gọi cũng như sứ vụ của Kitô giáo và Giáo hội. Không chỉ những lời ngài đã loan báo, nhưng cả những gì được trình bày trong các văn kiện của các cơ quan khác nhau của Tòa thánh đều cần được người giáo dân lắng nghe với lòng tuân phục kính yêu. Tại mỗi giáo hội địa phương, vị giám mục có trách nhiệm cá nhân đối với giáo dân. Ngài phải huấn luyện họ bằng cách loan báo Lời Chúa, cử hành phụng vụ Thánh Thể và các bí tích, làm sinh động và hướng dẫn đời sống Kitô hữu.[42]

·      Cách thức đào tạo giáo dân

Trên thực tế các giám mục thực hiện công việc đào tạo giáo dân bằng nhiều cách như thăm viếng, khuyên nhủ, giảng dạy trực tiếp hay gián tiếp qua các phương tiện truyền thông xã hội (thư từ, báo chí, sách vở, tài liệu…) và qua các cộng sự viên sống động là các linh mục.

Cho nên sau giám mục là các linh mục, nhất là các linh mục chánh xứ, những người có trách nhiệm chủ chốt trong việc đào tạo huấn luyện giáo dân trong giáo xứ được ủy thác cho mình.

Tông huấn Kitô hữu giáo dân xác định:

Giáo xứ giữ một vai trò thiết yếu trong việc huấn luyện cách trực tiếp hơn với từng giáo dân. Thực vậy giáo xứ có điều kiện dễ dàng để đến với riêng từng người, từng nhóm nên giáo xứ được kêu gọi hãy đào tạo các phần tử của mình biết lắng nghe Lời Chúa, biết đối thoại với Chúa trong cử hành phụng vụ cũng như cầu nguyện riêng, biết sống bác ái huynh đệ, và đồng thời giáo xứ còn phải cho dân thấy một cách trực tiếp và cụ thể, ý nghĩa của sự hiệp thông trong Giáo hội và của trách vụ truyền giáo.[43]

·      Tố chất cần có: “Bác ái trong mọi sự”

Được gán cho Thánh Âutinh là tác giả, câu La Tinh nổi tiếng In necessariis unitas, in dubiis libertas, in omnibus caritas (thống nhất trong điều chính, tương nhượng trong điều phụ, bác ái trong mọi sự) được Đức Giáo hoàng Gioan XXIII sử dụng trong Thông điệp Ad Petri cathedram (về chân lý, hiệp nhất, bình an trong tinh thần bác ái), ban hành ngày 29 tháng 6 năm 1959.[44]

Bác ái trong mọi sự chứng tỏ tính ưu việt của tình yêu: “dấu hiệu đặc trưng của người môn đệ Đức Kitô”.[45]Đức Giêsu dạy: “… luật căn bản để hoàn thiện con người và qua đó để biến đổi thế giới là điều răn mới về tình yêu”.[46]Các Kitô hữu cần phải là những chứng nhân xác tín sâu xa về tình yêu, và qua cuộc sống của mình, họ cần chứng tỏ tình yêu là động lực duy nhất có thể dẫn đến sự hoàn thiện bản thân và xã hội, làm cho xã hội tiến tới điều thiện hảo.[47]Ở đâu, thời nào, hoàn cảnh nào thì sứ điệp Kitô giáo căn bản vẫn không thay đổi: bác ái yêu thương bắt đầu từ trong nội bộ các cộng đoàn trong Giáo hội rồi lan toả ra xã hội bên ngoài, nhất là với người nghèo khó, người đau khổ tinh thần và thể xác. Chứng cứ căn bản, và cũng dễ tin nhất chính là bác ái:

Giáo hội được Chúa Kitô sai đi trình bày và thông ban tình yêu Thiên Chúa cho hết mọi người và mọi dân tộc…[48]

Như Thiên Chúa đã yêu chúng ta bằng một tình yêu vô vị lợi, thì các tín hữu cũng phải lấy tình bác ái mà lo lắng cho con người, bằng cách yêu mến họ với cùng một ý hướng như khi Chúa tìm kiếm con người.[49]

Đời sống và hoạt động của Giáo hội cần nêu cao đức bác ái. Giáo dân không được quên (mà phải nhớ dấu hiệu nhận biết và được nhận biết là môn đệ Đức Kitô) để áp dụng vào đời sống như nguyên tắc vàng: “… bác ái trong mọi sự”. Bởi đó mới thật là sức sống của Giáo hội.

Tạm kết: Những điều mong ước

Ý thức về sự cần thiết phải hiểu biết nhau hơn, giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân cần đón nhận những khác biệt của nhau để cùng nhau hoàn thành sứ vụ của “những tôi tớ vô dụng” đang tiến về cùng đích là Nước Thiên Chúa vì “tình yêu của Đức Kitô thôi thúc chúng ta”.[50]

Có Chúa Giêsu là Đầu của thân mình mầu nhiệm Giáo hội, chúng ta không thể không lạc quan tin tưởng rằng Giáo hội vẫn luôn bền vững và phát triển trong sự quan phòng của Thiên Chúa. Theo đó, chúng ta vẫn luôn mong ước những điều tốt đẹp sẽ đến trong sự cộng tác nhiệt thành của mọi thành phần dân Chúa khắp nơi.

Cách riêng, những người lo việc huấn luyện cần ý thức rằng việc đào luyện giáo dân là một trong những công trình trọng điểm của Giáo hội Việt Nam. Công trình trọng điểm này chắc chắn có nhiều thách đố nhưng không phải là không thể vượt qua, nếu không muốn phải khẳng định rằng: cũng có những thuận lợi trong thời đại hiện nay.[51]

Thiên niên kỷ thứ ba này đã và đang còn tiếp tục chào đón một hàng ngũ giáo dân tích cực hơn, trưởng thành hơn với sứ mạng yêu thương và phục vụ, có trách nhiệm và có khả năng gánh vác phận sự của mình trong Giáo hội và ngoài xã hội.[52]Hy vọng rồi đây Giáo hội Việt Nam sẽ:

-  sớm trở thành một Giáo hội thật sự trưởng thành, theo tiêu chuẩn của Công đồng Vaticanô II;

-  thật sự sống mầu nhiệm hiệp thông, bày tỏ cho dân tộc Việt Nam thấy trọn vẹn hơn bộ mặt thật, “rất bác ái và do đó rất dễ thương”, của các thành phần dân Chúa trong Giáo hội Chúa Kitô;

-  có thể sớm chu toàn một giai đoạn nữa trong sứ mạng Chúa Kitô giao phó: hăng hái và kiên trì loan báo Tin mừng Đức Giêsu Kitô cho mọi người dân Việt trong tinh thần bác ái và sẵn sàng phục vụ vì hạnh phúc Nước Trời.

Nói tóm lại,Giáo hội Việt Nam đang nỗ lực đào tạo giáo dân thành sứ giả Tin mừng, thiết lập một nội dung đào tạo giáo dân trưởng thành, không chỉ để biết mà còn để sống, hành động, và làm chứng...:[53] (1) giúp trưởng thành nhân bản; (2) gặp gỡ Đức Kitô và trở thành môn đệ của Người; (3) xây dựng cuộc sống gia đình theo kế hoạch của Thiên Chúa; (4) làm thành viên tích cực của Giáo hội và sứ giả của Chúa Kitô trong tư cách là công dân có trách nhiệm trong xã hội trần gian.

24-5-2013



[1]Gioan Phaolô II, Bài phát biểu ngày 26 tháng 11 năm 2000 (trước 40.000 người đến tham dự việc cử hành Năm Thánh về Tông đồ Giáo dân tại quảng trường Thánh Phêrô).
[2]Theo Téctulianô, nhóm giáo dân nam tín hữu ưu tú này có thể rửa tội, dâng thánh lễ khi thiếu vắng giáo sĩ.
[3]Ngày nay, dầu phụ nữ được xem là giáo dân từ lâu, nhưng đối với công việc mục vụ tại một số không ít các giáo xứ, phụ nữ vẫn còn bị xếp “ngoài lề”.
[4]Tuy nhiên, không phải lý do chính là nhân sự hàng giáo sĩ đang thiếu hụt, việc đào tạo hàng ngũ giáo dân trưởng thành luôn luôn là việc làm cấp thiết, là bổn phận của cả giáo sĩ lẫn giáo dân.
[5]GS, số 21-23.
[6]Tại một số không nhỏ các tòa giám mục, có những giáo dân còn được bổ nhiệm làm chưởng ấn.
[7]Văn kiện này đề xuất một sáng kiến đáng chú ý: để đạt mục tiêu ấy thì việc huấn luyện các linh mục và tu sĩ cho tương lai, cũng như chương trình huấn luyện liên tục dành cho các ngài rất cần sự hợp tác của những giáo dân có khả năng trong chính kế hoạch huấn luyện tại các chủng viện, học viện, tu viện. Công cuộc đào tạo cần hướng tới việc hình thành một ý thức xây dựng giáo hội tham gia (participative church).
[8]X. Felipe Gomez Ngô Minh, Hợp tuyển thần học, các số 18-19 (1997), 18-22 (1997-1998), và 31 (2001).
[9]AA1.
[10]X. AA 33.
[11]GS43.
[12]Trước hơn 250.000 thành viên các phong trào, cộng đoàn, đoàn hội giáo dân trong thánh lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống ngày 19 tháng 5 năm 2013.
[13]Trích dẫn từ “Thế giới nhìn từ Vatican 17/5/2013 - 23/5/2013” (http://www.youtube.com/watch?v=E5iyhDtWm-Ds).
[14]Trích dẫn từ “Thế giới nhìn từ Vatican 17/5/2013 - 23/5/2013” (http://www.youtube.com/watch?v=E5iyhDtWm - Ds).
[15]X. CT,25-26.
[16]X. CT,33-35.
[17]CT,64.
[18]LG, số 31.
[19]AA 4.
[20]X. LG 31.
[21]AA 4.
[22]X. Sweeny, The Obligations and Rights… (Những nghĩa vụ và quyền lợi…), 108-47. Sử sách công nhận giáo dân Việt Nam rất hoạt động, rất năng động, và rất sống động… ngay từ những buổi đầu của việc hình thành các xứ đạo tại Việt Nam, tuy rằng, nhận định này chưa phải là điều mặc nhiên đúng đối với mọi Kitô hữu tại Việt Nam xưa cũng như nay.
[23]Ðiều 230: §1. Các giáo dân thuộc nam giới có đủ tuổi và điều kiện do nghị định của hội đồng giám mục ấn định, có thể lãnh tác vụ đọc sách hoặc giúp lễ, qua một nghi lễ phụng vụ đã qui định. Tuy nhiên, việc trao tác vụ này không cho họ quyền được Giáo hội trợ cấp hoặc trả lương.
§2. Các giáo dân có thể được chỉ định tạm thời đảm nhận việc đọc sách trong các việc phụng vụ. Cũng thế, tất cả các giáo dân có thể thi hành những công tác của người chú giải, ca trưởng hoặc những công tác khác theo quy tắc luật định.
§3. Nơi nào nhu cầu Giáo hội đòi hỏi và thiếu thừa tác viên, thì các giáo dân dù không có tác vụ đọc sách và giúp lễ, cũng có thể thay th

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét