Ý cầu nguyện tháng

- Ý CẦU NGUYỆN THÁNG 10:

Cầu cho sứ vụ của người giáo dân trong Giáo Hội:
Xin cho các Kitô hữu giáo dân, cách riêng là phụ nữ, khi đã lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, có thể tham gia nhiều hơn vào các cơ quan hữu trách của Giáo Hội.

Thứ Tư, 30 tháng 9, 2015

Gợi ý mục vụ cho Năm Tân Phúc-Âm-hóa đời sống Giáo xứ và Cộng đoàn - Đề tài 11


Canh tân các Cộng đoàn nhỏ và gia đình
Anh em là thân thể Đức Kitô và mỗi người là một bộ phận (1 Cr 12,27)
1. Hoán cải mục vụ hướng đến truyền giáo
Đức Thánh Cha Phanxicô đang kêu gọi một sự “hoán cải mục vụ và truyền giáo”, không thể để tình hình tiếp tục như hiện tại. Việc “quản trị thuần túy” trong Giáo hội đã trở nên bất cập. Trên khắp thế giới chúng ta phải “thường xuyên trong trạng thái truyền giáo”[1]. Điều đáng băn khoăn và trăn trở “đó là sự kiện nhiều anh chị em chúng ta đang sống mà không có sức mạnh, ánh sáng và niềm an ủi phát sinh từ tình bạn với Đức Giêsu Kitô, không có một cộng đoàn đức tin nâng đỡ họ, không tìm thấy ý nghĩa và mục tiêu trong cuộc đời”. Ngài khuyến khích “tôi thà có một Hội Thánh bị bầm giập, mang thương tích và nhơ nhuốc vì đi ra ngoài đường, hơn là một Hội Thánh ốm yếu vì bị giam hãm và bám víu vào sự an toàn của mình”[2]. Do đó, Hội Thánh cần có một cuộc canh tân không thể trì hoãn nữa. Và “mọi sự canh tân của Hội Thánh phải lấy truyền giáo làm mục tiêu để tránh rơi vào nguy cơ của một Hội Thánh quy vào chính mình”[3].
2. Một cách thế hiện diện mới của Hội Thánh
– Đức Thánh Cha Phanxicô nhắc nhớ rằng “Giáo xứ là sự hiện diện của Hội Thánh tại một địa phương nhất định. [...] Giáo xứ là một cộng đoàn của các cộng đoàn, một thánh điện để những người khát nước đến uống dọc đường, và một trung tâm thường xuyên vươn ra truyền giáo. Tuy nhiên, phải nhìn nhận rằng lời kêu gọi xem xét lại và canh tân các giáo xứ của chúng ta vẫn chưa đủ sức đưa các giáo xứ trở thành những môi trường sống hiệp thông và tham dự, và làm cho giáo xứ trở nên hoàn toàn hướng về truyền giáo”[4]. Vì thế, Đức Thánh Cha nhắc đến đề nghị của các nghị phụ Thượng Hội đồng Giám mục thế giới lần thứ XIII: quan tâm đến “các Cộng Đoàn cơ bản và các Cộng Đoàn nhỏcác phong trào và các dạng hiệp hội là một nguồn làm phong phú Hội Thánh, được khơi dậy bởi Thần Khí để Phúc-Âm-hoá các vùng và các lãnh vực khác nhau. Các tổ chức này thường mang một nhiệt huyết Phúc-Âm-hoá mới và một khả năng mới để đối thoại với thế giới nhờ đó Hội Thánh được canh tân. Nhưng sẽ rất hữu ích cho các cơ chế này nếu chúng không mất tiếp xúc với thực tế phong phú của giáo xứ tại địa phương và sẵn sàng tham gia vào hoạt động mục vụ toàn thể của Hội Thánh địa phương”[5].
Cộng đoàn Kitô hữu nhỏ: cách thế hiện diện mới của Giáo hội
– Các Cộng đoàn Giáo hội cơ bản có giá trị “như một phương thế hữu hiệu để đẩy mạnh sự hiệp thông cộng tác trong các giáo xứ và giáo phận, và như một lực lượng thật sự cho công cuộc Loan báo Tin mừng. Những tập thể nhỏ bé này sẽ giúp các tín hữu sống thành những cộng đoàn đức tin, cầu nguyện và yêu thương như các Kiô hữu đầu tiên (x. Cv 2,44-47; 4,32-35). Các tập thể này còn giúp các thành viên sống Tin Mừng trong tinh thần yêu thương huynh đệ và phục vụ, từ đó trở thành điểm khởi hành vững chắc cho một xã hội mới, biểu hiện một nền văn minh tình thương. Cùng với Thượng Hội đồng, tôi khuyến khích Giáo hội tại Á châu, nơi nào có thể, xem các Cộng đoàn cơ bản này như một khí cụ hữu ích cho hoạt động loan báo Tin Mừng của Giáo hội. [...] Sự hiện diện của các cộng đoàn này không nghịch cùng các định chế và cơ cấu vững bền, vốn vẫn cần thiết cho Giáo hội để thực hiện sứ vụ của mình”[6].
Vậy Cộng đoàn Kitô hữu nhỏ (Small Christian Communities) hay còn gọi là Cộng đoàn Giáo hội cơ bản (Basic Ecclesial Communities) là gì? Đâu là những đặc trưng của một Cộng đoàn Kitô hữu nhỏ?
Bốn đặc điểm cốt yếu (tương ứng với những đặc tính DUY NHẤT, THÁNH THIỆN, TÔNG TRUYỀN, CÔNG GIÁO của Hội Thánh nói chung) của các Cộng đoàn Kitô hữu nhỏ này như sau:
• Những người sống cùng xóm, làng, hay cùng khu phố, nghĩa là cùng một địa bàn dân cư, bởi bí tích Rửa tội, họ hợp thành một Cộng đoàn nhỏ như là Thân Mình Chúa Kitô, gặp gỡ họp mặt một lần trong một tuần lễ / hai tuần lễ / một tháng để chia sẻ kinh nghiệm sống hiệp thông (khoảng 10-20 gia đình thành một Cộng đoàn nhỏ, giáo khu hay liên gia). (Neighbours).
• Họ chia sẻ Phúc Âm. Lời Chúa hay Đức Kitô Phục sinh, qua dấu chỉ của Lời trong bối cảnh cuộc sống là cơ sở cho Cộng đoàn nhỏ. Những người tham gia mở lòng mở trí trước Tin Mừng để mình được lớn lên trong đời sống thần linh. Thỉnh thoảng, đi đến đỉnh cao của chia sẻ, là một cử hành Thánh Thể, dấu chỉ bí tích sự hiện diện của Đức Kitô trong Cộng đoàn. (Gospel Sharing).
• Họ biểu lộ đức tin của mình qua việc phục vụ. Được linh hứng từ Lời Chúa, họ hành động trong đức tin qua những việc làm tuy nhỏ bé trong tình hiệp thông, như “thăm viếng nhau trong cộng đồng, cùng xây một cây cầu, cùng đào một giếng nước, dựng một mái nhà tình thương...”[7], nhưng như những hạt giống âm thầm của Tin Mừng vĩ đại. Những hành động đức tin biến đổi thế giới từng ngày qua việc đề cao các giá trị công lý, tình thương, và hoà bình. Bằng cách đó, họ biến kinh nguyện thành hành động, đức tin thành việc làm, tình yêu thành phục vụ. Như thế, họ tiếp nối sứ vụ truyền giáo của Hội Thánh trong địa bàn sinh sống của mình (Act in faith).
• Họ luôn giữ mối liên kết với Hội thánh toàn cầu, và địa phương. Các Cộng đoàn nhỏ không tồn tại biệt lập, nhưng luôn hợp nhất với Hội Thánh hoàn vũ. Các trưởng Cộng đoàn viếng thăm các Cộng đoàn láng giềng. Các thành viên trong Hội đồng mục vụ giáo xứ được chọn hay được bầu từ các Cộng đoàn nhỏ khác nhau này. Cha xứ, người nối kết sống động giữa giám mục và cộng đoàn giáo xứ nhận trách nhiệm đào tạo và hướng dẫn các trưởng Cộng đoàn nhỏ (trùm khu). Thánh Thể là dấu chỉ cao nhất của mối liên kết của Đức Kitô là Đầu với các chi thể của Thân Mình Người (with the Universal Church).
3. Tân Phúc-Âm-hoá bắt đầu từ Gia đình
Gia đình chính là Cộng đoàn Giáo hội cơ bản nhất, cũng là đối tượng đầu tiên và là chủ thể đầu tiên của công cuộc mục vụ truyền giáo, nên được đòi hỏi phải quan tâm tân Phúc-Âm-hoá trước tiên. Nếu Hội Thánh là phúc lành của gia đình, thì gia đình cảm nhận cụ thể rõ ràng nhất phúc lành ấy nơi Cộng đoàn Giáo hội cơ bản địa phương, tức là giáo khu, giáo xứ, giáo họ thân thiết, gần gũi trong mối thâm tình hiệp nhất yêu thương và sống đức tin qua việc phục vụ nhau và phục vụ anh chị em lương dân trong xóm làng, khu phố mình chung sống hằng ngày. Nhưng gia đình cũng là phúc lành của Hội Thánh, vì Hội Thánh là Gia Đình của các gia đình. Vì thế, việc gìn giữ ơn huệ bí tích của Chúa một mặt thuộc trách nhiệm của đôi vợ chồng Kitô hữu và mặt khác là của cộng đoàn, ở đây hiểu cụ thể là cộng đoàn cơ bản (giáo khu, giáo họ, giáo xứ) mỗi bên tùy theo cách thế của mình. Trước những khó khăn nặng nề về việc gìn giữ sự hiệp nhất hôn nhân như tình trạng các gia đình ngày nay, việc phân định nghĩa vụ của mỗi bên và cả những thiếu sót của họ cần được tìm hiểu cách sâu xa và chân thành từ hai vợ chồng với sự giúp đỡ của cộng đoàn, nhằm hiểu biết, đánh giá và sửa chữa những gì đã thiếu sót hoặc bị bỏ quên của cả hai bên. Về việc này, vai trò của các cộng đoàn nhỏ, các hội đoàn hay hiệp hội trong giáo xứ và giáo họ thật quan trọng và rất ý nghĩa.
Câu hỏi thảo luận
1. Cộng đoàn Giáo xứ, cách riêng giáo họ, giáo khu của anh chị đã và đang làm gì để đồng hành với các các gia đình đang ở hoàn cảnh khó khăn?
2. Các gia đình trong giáo xứ hay giáo họ của anh chị liên kết với nhau thế nào để loan báo Tin Mừng cho những người lương dân, những người tín hữu xa Chúa, xa Hội Thánh đang sống quanh ta?
3. Các gia đình trong giáo xứ, các cộng đoàn nhỏ, cầu nguyện với Lời Chúa như thế nào?
–––––––––––––––––––––––––––––––––
[1] ĐGH Phanxicô, Tông huấn Evangelii Gaudium, 2013 (EG), 25.
[2] EG, 49.
[3] EG, 27.
[4] EG, 28.
[5] EG, 29.
[6] ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn Ecclesia in Asia, 25.
[7] HĐGMVN, Thư Mục Vụ 2015: Tân Phúc-Âm-hóa đời sống các Giáo xứ và các Cộng đoàn sống đời thánh hiến, 4.


Lm Luy Nguyễn Anh Tuấn
Nguồn: http://www.hdgmvietnam.org/goi-y-muc-vu-cho-nam-tan-phuc-am-hoa-doi-song-giao-xu-va-cong-doan-de-tai-11/7291.36.17.aspx

Thứ Bảy, 26 tháng 9, 2015

Tin Mừng Chúa nhật XXVI thường niên - Năm B

PHÚC ÂM: Mc 9, 37-42. 44. 46-47
"Ai chẳng chống đối các con, là ủng hộ các con. Nếu tay con nên dịp tội cho con, hãy chặt tay đó đi".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Gioan thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, chúng con thấy có kẻ nhân danh Thầy mà trừ quỷ, kẻ đó không theo chúng ta, và chúng con đã ngăn cấm y". Nhưng Chúa Giêsu phán: "Ðừng ngăn cấm y, vì chẳng ai có thể nhân danh Thầy mà làm phép lạ, rồi liền đó lại nói xấu Thầy. Ai chẳng chống đối các con, là ủng hộ các con. Ai nhân danh Thầy mà cho các con một ly nước vì lẽ các con thuộc về Ðấng Kitô, Thầy bảo thật các con: kẻ đó sẽ không mất phần thưởng đâu. Nhưng nếu kẻ nào làm cớ vấp phạm cho một trong những kẻ bé mọn có lòng tin Thầy, thà buộc thớt cối xay vào cổ người ấy mà xô xuống biển thì hơn. "Nếu tay con nên dịp tội cho con, hãy chặt tay đó đi: thà con mất một tay mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai tay mà phải vào hoả ngục, trong lửa không hề tắt. Và nếu chân con làm dịp tội cho con, hãy chặt chân đó đi: thà con mất một chân mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai chân mà phải ném xuống hoả ngục. Và nếu mắt con làm dịp tội cho con, hãy móc mắt đó đi, thà con còn một mắt mà vào nước Thiên Chúa, còn hơn là có đủ hai mắt mà phải ném xuống hoả ngục, nơi mà dòi bọ rúc rỉa nó không hề chết và lửa không hề tắt".
Nguồn: http://www.kinhthanhvn.org/viewItem.jhtml?itemId=10523

Thứ Tư, 23 tháng 9, 2015

Thư kêu gọi đóng góp cho việc trùng tu Vương cung Thánh đường Đức Bà Sài Gòn

TOÀ TỔNG GIÁM MỤC
Thành phố Hồ Chí Minh
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 01-09-2015
Kính gởi : Quý cha
                quý tu sĩ nam nữ
               và toàn thể anh chị em giáo dân
               trong đại gia đình Tổng giáo phận
THƯ KÊU GỌI ĐÓNG GÓP CHO VIỆC TRÙNG TU
VƯƠNG CUNG THÁNH ĐƯỜNG ĐỨC BÀ SÀI GÒN
Quý cha, quý tu sĩ và anh chị em rất thân mến,
Vào ngày lễ Phục Sinh năm nay, 05-04-2015, Nhà thờ Chính Toà Đức Bà Sài Gòn hay Vương Cung Thánh Đường Chính Toà Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội vừa tròn 135 năm tuổi. Ngôi nhà thờ cổ kính với kiến trúc độc đáo không chỉ là biểu tượng của giới Công Giáo, mà còn là ký ức và niềm tự hào của nhiều người dân Sài Gòn từ gần một thế kỷ rưỡi qua. Thật vậy, khi nhắc tới Hòn Ngọc Viễn Đông, hay khi chọn một hình ảnh đặc trưng cho miền đất phương Nam này, người ta nghĩ ngay đến hai hình ảnh nổi bật, hoặc là chợ Bến Thành, hoặc là Nhà thờ Đức Bà.
Đối với cộng đoàn Dân Chúa Tổng giáo phận Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh, Nhà thờ Chính Toà Đức Bà Sài Gòn là nhà thờ MẸ của tất cả các nhà thờ trong thành phố, vì là nhà thờ của Đấng Bản Quyền giáo phận. Trong ngôi nhà thờ thân yêu này, biết bao sự kiện quan trọng đã diễn ra, đặc biệt trong vòng 75 năm qua.
Ngôi nhà thờ nguyên thuỷ (1880 - 1895)

– Trước hết là việc tấn phong giám mục cho :
Đức Cha Jean Cassaigne (Đức Cha Gioan Sanh) ngày 24-06-1941,
Đức Cha Phaolô Nguyễn Văn Bình và Đức Cha Simon-Hoà Nguyễn Văn Hiền (30-11-1955),
Các Đức Cha Philipphê Nguyễn Kim Điền, Micae Nguyễn Khắc Ngữ, Antôn Nguyễn Văn Thiện, Giuse Trần Văn Thiện (22-01-1961),
Ba Đức Cha Phaolô Huỳnh Đông Các, Đaminh Nguyễn Văn Lãng, Nicôla Huỳnh Văn Nghi (11-08-1974),
Đức Cha Luy Phạm Văn Nẫm (02-02-1978), Đức Cha Giuse Vũ Duy Thống (17-09-2001).
– Tiếp đến là những cuộc tiếp đón các Đức Hồng Y Đại diện Toà Thánh Rôma với thánh lễ trọng thể : Đức Hồng Y Gregorio Pietro Agagianian (18-02-1959), Đức Hồng Y Roger Etchegaray (10-07-1989), Đức Hồng Y Rossi (11-08-1974), Đức Hồng Y Gaudencio B. Rosales, Đức Hồng Y Oswald Gracias và một số Đấng khác trong thánh lễ kết thúc Đại Hội toàn thể lần thứ X của Liên Hội Đồng Giám Mục Á Châu, vào sáng Chúa nhật 16-12-2012, và Đức Hồng Y Filoni (25-01-2015).
– Cuối cùng là thánh lễ nhậm chức của Đức Tổng Giám Mục Phaolô Nguyễn Văn Bình (02-04-1961), Đức Tổng Giám Mục Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn (02-04-1998), Đức Tổng Giám Mục Phaolô Bùi Văn Đọc (19-10-2013 và 24-04-2014).
– Cũng tại Nhà thờ Chính Toà, hàng ngàn linh mục đã được phong chức, để ra đi phục vụ tại các giáo xứ và dấn thân trong công cuộc loan báo Tin Mừng trên khắp mọi miền đất nước.


Sau 135 năm hiện diện trên vùng đất Sài Gòn – Gia Định, Nhà thờ Đức Bà, tuy may mắn không bị phá huỷ bởi chiến tranh, và dù nhìn bề ngoài vẫn uy nghi và có vẻ vững chắc, nhưng do ảnh hưởng của thiên tai, do ô nhiễm từ khói bụi, do lượng khí thải từ xe cộ lưu thông đông đảo chung quanh nhà thờ, nên nhiều hạng mục đã xuống cấp rất nghiêm trọng, đặc biệt là phần mái, tháp chuông, các đà chịu lực, các mái vòm phía cuối nhà thờ. Nếu tình trạng này kéo dài thêm nữa, sẽ gây nguy hiểm cho giáo dân dự lễ.
Thưa quý cha, quý tu sĩ và anh chị em,
Chúng ta đã được tiền nhân để lại một ngôi nhà thờ cổ kính, đã được nâng lên hàng Vương Cung Thánh Đường đầu tiên của Việt Nam (sau này có thêm Vương Cung Thánh Đường La Vang, Sở Kiện và Phú Nhai), cũng là một tuyệt tác kiến trúc, một công trình tiêu biểu góp phần tạo nên diện mạo đô thị Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh. Do đó trách nhiệm của chúng ta là phải giữ gìn, bảo tồn để các thế hệ mai sau vẫn luôn tự hào và tiếp tục sử dụng. Cũng vì thế, trong thánh lễ Dầu ngày thứ Năm Tuần Thánh năm nay, 2015, tôi đã công bố quyết định trùng tu Vương Cung Thánh Đường Đức Bà Sài Gòn và thành lập Ban Trùng Tu cấp giáo phận do cha Tổng Đại Diện Inhaxiô Hồ Văn Xuân đứng đầu.
Bởi kiến trúc của ngôi nhà thờ rất độc đáo, cách xây dựng cũng khá tỉ mỉ, công phu và đạt độ chính xác cao, lại nằm giữa lòng phố xá đông đúc, nên việc trùng tu cũng đòi hỏi phải cân nhắc rất kỹ lưỡng, với sự tư vấn của nhiều công ty, tổ chức và cá nhân có chuyên môn cao và nhiều kinh nghiệm trong kiến trúc và văn hoá ... Kinh phí và thời gian thực hiện được các đơn vị thẩm định là sẽ rất lớn và có thể kéo dài nhiều năm.
Trong tinh thần hiệp thông và đồng trách nhiệm giữa các thành phần Dân Chúa, tôi tha thiết mời gọi mỗi thành viên trong đại gia đình Tổng giáo phận cùng chung sức chung lòng để có thể lau mới một phiến đá, thay thế một viên ngói, làm mới một ô kính màu hay gia cố một mảng tường ... qua việc quảng đại đóng góp vào việc đại trùng tu ngôi Nhà thờ Chính Toà thân yêu của tất cả chúng ta. Cuộc lạc quyên đợt 1 sẽ khởi sự từ đầu tháng 9 và kéo dài tới ngày 31-12-2015.
Vì lợi ích lớn lao của Hội Thánh, cách riêng của Tổng giáo phận, xin anh chị em thêm lời cầu nguyện và rộng tay giúp đỡ để công việc trùng tu Nhà thờ Đức Bà từ khởi sự cho đến hoàn thành đều nhờ bởi ơn Chúa.
Nguyện xin Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội, bổn mạng của Nhà thờ Chính Toà Đức Bà, và Thánh Cả Giuse, Bạn trăm năm của Đức Trinh Nữ, chuyển cầu cùng Chúa ban muôn ơn lành cho Tổng giáo phận của chúng ta, cách riêng cho những ai góp phần vào công việc đầy ý nghĩa này.
(Đã ký và đóng dấu)
Phaolô Bùi Văn Đọc
Tổng Giám Mục
Tổng giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh
Nguồn: http://tgpsaigon.net/baiviet-tintuc/20150922/32146

Đức Thánh Cha tông du Cuba: “Ai không sống phục vụ, thì chẳng phục vụ cho sự sống”


Bài giảng Thánh lễ Chúa nhật 20-09 tại thủ đô La Habana

WHĐ (20.09.2015) - Sáng Chúa nhật 20-09-2015, trong khuôn khổ chuyến tông du Cuba từ 19 đến 22-09-2015, sáng Chúa nhật 20-09, tại quảng trường Plaza de la Revolución, thủ đô La Habana, Đức Thánh Cha Phanxicô đã dâng Thánh lễ cùng đông đảo giám mục, linh mục và 300.000 giáo dân.

Sau đây là toàn văn bài giảng trong Thánh lễ của Đức Thánh Cha.

* * *

Tin Mừng thuật lại Chúa Giêsu đặt cho các môn đệ một câu hỏi có vẻ tọc mạch: “Dọc đường các con bàn tán gì vậy?”. Đó cũng có thể là câu hỏi Chúa đặt cho mỗi người chúng ta hôm nay: “Hằng ngày các con bàn chuyện gì?”, “Các con ước ao gì?”. Tin Mừng cho chúng ta biết các môn đệ “không trả lời vì dọc đường họ tranh cãi với nhau ai là người trọng nhất”. Các môn đệ xấu hổ không dám kể lại cho Chúa Giêsu chuyện họ đã nói với nhau. Như các môn đệ ngày xưa, chúng ta hiện cũng có thể tranh cãi với nhau: ai là người trọng nhất?

Chúa Giêsu hỏi vậy thôi, Người không buộc các ông phải kể lại những điều họ nói với nhau dọc đường. Nhưng câu hỏi của Chúa không những vẫn vương vấn trong đầu mà còn nơi cõi lòng các môn đệ.

Ai là người trọng nhất? Đó là câu hỏi sẽ vương vấn suốt đời, khiến chúng ta phải đưa ra câu trả lời vào những lúc khác nhau trong cuộc đời. Chúng ta không thể tránh né câu hỏi đó, bởi nó đã được ghi khắc vào cõi lòng chúng ta. Tôi nhớ những lúc gia đình quây quần, người lớn hỏi trẻ con: “Con thương ai hơn, Mẹ hay Bố?” Như vậy cũng chẳng khác gì hỏi chúng: “Con thấy ai quan trọng hơn?” Phải chăng đây chỉ là trò chúng ta bày ra để chơi với con? Lịch sử nhân loại đã được ghi dấu ấn bởi câu trả lời của chúng ta đối với câu hỏi này.

Chúa Giêsu không sợ những câu dân chúng hỏi mình; Người không sợ nhân loại hoặc những điều chúng ta đang tìm kiếm. Trái lại, Chúa biết những “lắt léo” của lòng dạ con người, và, như một nhà mô phạm tài ba, Người luôn sẵn sàng khích lệ và nâng đỡ chúng ta. Bao giờ cũng vậy, Người đều đón nhận những điều chúng ta tìm kiếm, mong mỏi và mang lại cho chúng một chân trời mới. Bao giờ cũng vậy, bằng cách này cách khác, Người tìm câu trả lời có thể đặt ra thách đố mới, đặt sang một bên “những câu trả lời đúng”, những hồi đáp chuẩn mực chúng ta vẫn mong được mang lại. Bao giờ cũng vậy, Chúa Giêsu đều đặt trước chúng ta thứ “logic” của tình yêu. Một cách nghĩ, cách tiếp cận hướng đến sự sống mà mọi người có thể thực hành vì thấy nó có ý nghĩa.

Hoàn toàn xa lạ với chủ trương chỉ nhắm đến giới tinh hoa, chân trời Chúa Giêsu chỉ ra cho chúng ta đi tới không dành cho một số linh hồn được đặc quyền nào đó mới có thể đạt tới tầm cao của sự hiểu biết hoặc những tầm vóc của đời sống thiêng liêng. Chân trời được Chúa Giêsu chỉ ra phải được chúng ta thực hiện bằng cuộc sống hằng ngày, tại đây, trên “hòn đảo” của chúng ta, những điều giúp cho cuộc sống hằng ngày của chúng ta được mang hương vị của sự vĩnh cửu.

Ai là người trọng nhất? Chúa Giêsu trả lời đơn giản: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người”. Ai muốn làm lớn thì phải phục vụ mọi người, chứ không phải được mọi người phục vụ.

Chúa Giêsu đã đưa ra ý kiến rất khác người khi các môn đệ tranh cãi nhau ai là người giữ vị trí cao nhất, ai được chọn để nhận những đặc quyền, ai là người sẽ đứng trên luật chung, chuẩn chung, để nổi bật khi dành quyền làm cấp trên mọi người. Ai sẽ leo nhanh nhất lên nấc thang chiếm được công việc mang lại lợi nhuận.

Chúa Giêsu lật ngược “logic” của họ, suy tính của họ một cách đơn giản khi bảo họ phải thực sự sống dấn thân cụ thể cho những người sống bên cạnh chúng ta.

Chúng ta phải lưu tâm đến lời mời gọi hãy phục vụ cách cụ thể. Phục vụ tha nhân chủ yếu là lưu tâm đến tình trạng dễ bị tổn thương của họ. Quan tâm đến người yếu ớt trong gia đình chúng ta, xã hội chúng ta, người dân chúng ta. Sự yếu ớt của họ mang gương mặt thống khổ, mong manh, thất vọng Chúa Giêsu bảo chúng ta phải chú ý và dạy chúng ta phải yêu thương. Mọi hành động và quyết định của chúng ta phải toát lên tình yêu thương. Mọi nhiệm vụ chúng ta được kêu gọi đảm nhận với tư cách công dân phải được thực hiện với tình yêu thương. Những con người bằng xương bằng thịt, những con người với cuộc đời và những câu chuyện của chính mình, với tất cả những yếu đuối: chính họ là những người Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta bảo vệ, chăm sóc, phục vụ. Là Kitô hữu, chúng ta phải cổ võ phẩm giá của anh em, chị em mình, phải tranh đấu và sống cho phẩm giá đó. Vì lẽ đó, các Kitô hữu không ngừng được mời gọi hãy gạt sang một bên những mong mỏi và khao khát của riêng mình, sự theo đuổi quyền lực, thay vào đó, hãy nhìn đến những người dễ bị tổn thương nhất.

Có một loại “phục vụ” thực sự là phục vụ, vì thế chúng ta cần chú ý đừng để sa vào loại gọi là “phục vụ” nhưng chỉ là “phục vụ bản thân mình”. Đó là loại phục vụ chỉ biết quan tâm giúp “người của tôi”, “người của chúng ta”. Loại phục vụ này luôn luôn loại “người của anh” ra ngoài, làm nảy sinh sự loại trừ.

Qua ơn gọi làm Kitô hữu, tất cả chúng ta được mời gọi sống phục vụ thực sự, đồng thời giúp nhau đừng rơi vào cám dỗ của loại “phục vụ” mà thực chất chỉ là “phục vụ chính mình”. Tất cả chúng ta đều được Chúa Giêsu yêu cầu, kể cả thúc giục, hãy đem hết tình yêu thương quan tâm đến nhau. Không cần nhìn quanh để xem người bên cạnh mình có làm hay không. Chúa Giêsu nói với chúng ta “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người”. Chúa không nói: nếu người hàng xóm của ngươi muốn làm người đứng đầu, hãy để hắn làm kẻ phục vụ! Chúng ta phải lưu ý tránh cái nhìn xét đoán và biết canh tân niềm tin của mình thành cái nhìn có sức biến đổi Chúa đang mời gọi chúng ta.

Việc đem hết lòng yêu thương săn sóc mọi người không phải là làm nô lệ, mà là đặt anh em, chị em mình vào vị trí trung tâm. Phục vụ luôn luôn nhìn vào gương mặt của anh chị em mình, chạm vào phần xác của anh chị em mình, cảm nhận họ rất gần gũi và kể cả nhiều lúc cố “nén lòng” giúp họ. Phục vụ không bao giờ mang tính ý thức hệ, vì chúng ta không phục vụ những ý tưởng, mà phục vụ những con người.

Dân thánh thiện và trung tín của Thiên Chúa tại Cuba là một dân tộc thích họp mặt, bạn bè, và những điều đẹp đẽ. Đó là một dân tộc đang đều bước với những khúc tụng ca. Một dân tộc có những vết thương, như mọi dân tộc khác, nhưng biết cách đứng dậy với cánh tay rộng mở, tiếp tục tiến bước trong hy vọng, vì có một ơn gọi cao quý. Hôm nay tôi mong anh chị em hãy chăm sóc cho ơn gọi này của anh chị em, chăm sóc những ơn Chúa ban cho anh chị em, và trên hết tôi mời gọi anh chị em quan tâm và phục vụ những anh chị em yếu đuối của mình. Đừng bỏ mặc những anh chị em này cho những kế hoạch có thể hấp dẫn nhưng lại không quan tâm đến khuôn mặt con người bên cạnh anh chị em. Chúng ta biết, chúng ta là những chứng nhân cho sức mạnh khôn sánh của sự sống lại, sức mạnh phục sinh “ở khắp nơi làm phát sinh những hạt giống cho một thế giới mới (x. Tông huấn Niềm vui Tin Mừng, 276, 278).

Chúng ta đừng quên bài Tin Mừng hôm nay: tầm quan trọng của những con người, của dân tộc, và tầm quan trọng của những cá nhân, luôn được đặt trên nền tảng của cách họ tìm kiếm nhằm phục vụ những anh em, chị em yếu đuối của mình. Tại đây chúng ta gặp một trong những thành quả của nhân loại đích thực. “Ai không sống phục vụ, thì chẳng phục vụ cho sự sống”.

Thành Thi chuyển ngữ
Nguồn: http://www.hdgmvietnam.org/duc-thanh-cha-tong-du-cuba-%E2%80%9Cai-khong-song-phuc-vu-thi-chang-phuc-vu-cho-su-song%E2%80%9D/7313.57.7.aspx

Thứ Bảy, 19 tháng 9, 2015

Tin Mừng Chúa nhật XXV thường niên - Năm B

PHÚC ÂM: Mc 9, 29-36
"Con Người sẽ bị nộp. Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu và các môn đệ từ trên núi xuống, rồi đi ngang qua xứ Galilêa vàNgười không muốn cho ai biết. Vì Người dạy dỗ và bảo cáông rằng: "Con Người sẽ bị nộp vào tay người ta và họ sẽ giết Người. Khi đã bị giết, ngày thứ ba, Người sẽ sống lại". Nhưng các ông không hiểu lời đó và sợ không dám hỏi Người. Các ngài tới Capharnaum. Khi đã vào nhà, Người hỏi cáông: "Dọc đàng các con tranh luận gì thế?" Cáông làm thinh, vì dọc đàng các ông tranh luận xem ai là người lớn nhất. Bấy giờ Người ngồi xuống, gọi mười hai ông lại và bảo cáông rằng: "Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người". Rồi Người đem một em bé lại đặt giữa cáông, ôm nó mà nói với cáông rằng: "Ai đón nhận một trong những trẻ nhỏ như thế này vìdanh Thầy, tức là đón tiếp chính mình Thầy. Và ai đón tiếp Thầy, thực ra không phải đón tiếp Thầy, nhưng là đón tiếp Ðấng đã sai Thầy".
Nguồn: http://www.kinhthanhvn.org/viewItem.jhtml?itemId=10512

Hội đồng Giám mục Việt Nam kết thúc Hội nghị Thường niên kỳ II-2015


WHĐ (18.09.2015) – Từ ngày 14-09-2015, Hội đồng Giám mục Việt Nam đã tiến hành họp Hội nghị thường niên kỳ II/2015 tại Toà Giám mục Xuân Lộc. Chiều tối thứ Năm 17-09, Hội nghị đã kết thúc tốt đẹp và các Đức giám mục đã gửi đến Cộng đồng Dân Chúa một thư mục vụ. Sáng thứ Sáu 18-09, các Đức giám mục chia sẻ niềm vui và hiệp thông với giáo phận Xuân Lộc trong Lễ Đặt Viên Đá Đầu Tiên xây dựng công trình Hành hương Thánh Mẫu tại Núi Cúi.

Sau đây là nội dung Thư mục vụ gửi Cộng đồng Dân Chúa và Biên bản của Hội nghị.
Nguồn: http://www.hdgmvietnam.org/hoi-dong-giam-muc-viet-nam-ket-thuc-hoi-nghi-thuong-nien-ky-ii-2015/7299.63.8.aspx

Thượng Hội đồng Giám mục Khoá Thường lệ thứ 14 về gia đình: danh sách cuối cùng


WHĐ (17.09.2015) – Hôm thứ Ba 15-09-2015, Toà Thánh đã công bố danh sách cuối cùng các tham dự viên Thượng Hội đồng Giám mục Khoá Thường lệ thứ 14 về chủ đề “Ơn gọi và sứ mạng của gia đình trong Giáo hội và trong thế giới ngày nay”, sẽ diễn ra tại Vatican từ ngày 04 đến 25 tháng Mười 2015.

Ngoài một danh sách dài gồm các tham dự viên do chức vụ, theo quy chế của Thượng Hội đồng, các vị do các Hội đồng Giám mục hoặc do Liên hiệp các Bề trên Tổng quyền đề cử, các vị đứng đầu các cơ quan trong Giáo triều Roma, đại biểu các Giáo hội Đông phương, các dự thính viên và các đại biểu huynh đệ, bốn mươi tham dự viên khác đã được chính Đức Thánh Cha thêm vào danh sách này.

Đức Thánh Cha Phanxicô, người luôn mong muốn các thảo luận tại Thượng Hội đồng diễn ra cách cởi mở, trong đó tất cả các xu hướng đều có thể thẳng thắn và tự do phát biểu, đã quyết định mở rộng danh sách tham dự viên Thượng Hội đồng với các nhân vật có những hiểu biết và những tiểu sử rất khác biệt nhau. Trong số này, có thể kể đến các hồng y:Danneels, Kasper, Caffarra Schönborn, Dolan, Sgreccia. Trong số các vị nói tiếng Pháp, có các hồng y: LaurentMonsengwo, Tổng giám mục Kinshasa, Cộng hoà Dân chủ Congo; Gérald Lacroix, Tổng giám mục Québec, Canada;Philippe Ouedraogo, Tổng giám mục Ouagadougou, Burkina Faso; Đức Tổng giám mục Laurent Ulrich, Tổng giám mục Lille, Pháp; và linh mục François-Xavier Dumortier, Viện trưởng Đại học Giáo hoàng Grêgôriô.

Người ta cũng thấy có các nhân vật gần gũi với Đức Thánh Cha Phanxicô như nhà thần học Victor Manuel Fernandez,Viện trưởng Trường Đại học Công giáo Argentina; Đức giám mục Marcello Semeraro, thư ký của Hội đồng hồng y tư vấn tức Nhóm C9; và linh mục Antonio Spadaro, chủ nhiệm tập san Civilta Cattolica của Dòng Tên.

Trong số các dự thính viên, có một số phụ nữ như sử gia người Ý Lucia Scaraffia, chuyên viết thời luận cho nhật báoL’Osservatore Romano; bà Moira McQueen, giám đốc Viện Đạo đức Sinh học Công giáo của Canada; và bà Agnes Offiong Erogunaye, chủ tịch Tổ chức Phụ nữ Công giáo Nigeria.

Cũng như tại Thượng Hội đồng Giám mục Khoá ngoại thường năm 2014, danh sách các dự thính viên cũng gồm một số đôi vợ chồng, trong số này có ông bà Nathalie và Christian Mignonat, thành viên của Equipes Reliance - tổ chức dành cho những người ly dị và tái hôn. Họ cũng ở trong số các thành viên sáng lập Nhóm SEDIRE, chuyên đón tiếp vàđồng hành với các đôi vợ chồng kết hôn về dân sự.

Bốn vị chủ tịch thừa uỷ là các Đức hồng y: André Vingt-Trois, Tổng giám mục Paris, Pháp; Luis Antonio Tagle, Tổnggiám mục Manila, Philippines; Raymundo Damasceno Assis, Tổng giám mục Aparecida, Brazil và Wilfrid Napier,Tổng giám mục Durban, Nam Phi.

Cũng như trong Thượng Hội đồng trước, vị Tổng tường trình viên là Đức hồng y Péter Erdo, Chủ tịch Hội nghị các Hội đồng Giám mục châu Âu, và Thư ký đặc biệt là nhà thần học người Ý, Đức Tổng giám mục Bruno Forte, Tổng giám mục Chieti-Vasto.

Trong số các đại biểu anh em, đại diện cho Đức Thượng phụ Moskva là Đức Tổng giám mục Hilarion Alfeyev, Trưởng ban đối ngoại của Toà Thượng phụ Moskva.

Minh Đức
Nguồn: http://www.hdgmvietnam.org/thuong-hoi-dong-giam-muc-khoa-thuong-le-thu-14-ve-gia-dinh-danh-sach-cuoi-cung/7297.57.7.aspx

Thứ Năm, 17 tháng 9, 2015

Hội nghị Thường niên kỳ II-2015 Hội đồng Giám mục Việt Nam

 

WHĐ (14.09.2015) – Hội nghị Thường niên kỳ II của Hội đồng Giám mục năm nay diễn ra tại Toà Giám mục giáo phận Xuân Lộc, từ ngày 14 đến ngày 18 tháng Chín. Như mọi khi, Hội nghị khai mạc với giờ Chầu Thánh Thể lúc 20 giờ ngày 14-09, xin Chúa chúc lành và ban muôn ơn trên các Đức cha tham dự Hội nghị. Hội nghị lần này vắng mặt Đức giám mục Bắc Ninh không tham dự được vì đau bệnh, và một vị khác bận công tác mục vụ xa.

Đầu giờ khai mạc sau giờ Chầu, sau khi cầu nguyện với Chúa Thánh Thần, Đức Tổng giám mục Phaolô Bùi Văn Đọc chào mừng quý Đức cha, và báo tin Đức Tổng giám mục Đại diện Toà Thánh không đến dự buổi đầu tiên như thông lệ, vì ngài đang trong thời gian nghỉ hè. Đức cha Phó Tổng thư ký thay Đức cha Tổng thư ký thông báo chương trình nghị sự; Hội nghị lần này sẽ bàn đến các vấn đề như: tổ chức Năm Thánh Lòng Thương Xót; duyệt các Bản văn phụng vụ; tiến trình thành lập Học viện Công giáo; chuẩn bị Thượng Hội đồng Giám mục Thế giới về Gia đình; bàn thêm về Mục vụ Di dân; soạn Thư mục vụ 2016 gởi Cộng đồng Dân Chúa; các giáo phận và các Uỷ ban chia sẻ thông tin sinh hoạt năm qua; xúc tiến án phong chân phước 2 vị Giám mục tiên khởi Lambert De La Motte và François Pallu.

Hội nghị sẽ kết thúc vào tối thứ Năm 17 tháng Chín và ngày hôm sau các Đức cha sẽ hiệp thông với giáo phận Xuân Lộc trong Lễ Đặt Viên Đá Đầu Tiên xây dựng công trình Hành hương Thánh Mẫu tại Núi Cúi.

WHĐ
Nguồn: http://www.hdgmvietnam.org/hoi-nghi-thuong-nien-ky-ii-2015-hoi-dong-giam-muc-viet-nam/7294.63.8.aspx

Những bước chuyển mình của Hội Thánh trên đường loan báo Tin Mừng



Từ Ad Gentes đến Evangelii Gaudium

Dẫn nhập: Kính thưa Đại Hội, nhằm kỉ niệm năm mươi năm sắc lệnh Ad Gentes (đến với muôn dân) ra đời, chúng ta cùng nhau nhìn lại sự chuyển mình của Hội Thánh trên đường Loan báo Tin Mừng: từ Ad Gentes đến Evagelii Gaudium.

Công Đồng Vaticano II đã khẳng định “bản chất của Giáo Hội là truyền giáo” (AG, Số 2). Đức Gioan Phaolô II tiếp tục kêu mời chúng ta nhận ra rằng “không được giảm bớt nỗ lực rao giảng Tin Mừng” cho những người ở xa Đức Kitô, “bởi vì đây là nhiệm vụ hàng đầu của Hội Thánh”. Vì thế, cho tới hôm nay “hoạt động truyền giáo hôm nay vẫn là thách thức lớn nhất cho Hội Thánh”, và “nhiệm vụ truyền giáo phải là nhiệm vụ hàng đầu” (EG, số 15). Như vậy, mệnh lệnh truyền giáo của Thầy Giêsu chí thánh vẫn luôn được các Tông đồ và các đấng kế nhiệm không ngừng thi hành và đào sâu. Cụ thể, trong giới hạn của đề tài này, chúng ta nhìn lại bước đường loan báo Tin Mừng của Hội Thánh từ AG đến EG.

Ad Gentes số 13 đã viết rằng: “Tại những nơi Thiên Chúa đã mở rộng lối vào cho việc rao giảng mầu nhiệm Chúa Kitô, phải tin tưởng và bền chí loan báo cho tất cả mọi người nhận biết Thiên Chúa hằng sống và Đấng Ngài sai đến cứu chuộc mọi người là Chúa Kitô, để những người ngoài Kitô giáo được Chúa Thánh Thần mở lòng tự ý trở về với Chúa trong niềm tin, và thành tâm gắn bó với Đấng là “đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6), Đấng không chỉ đáp ứng, mà đúng hơn, còn vượt quá đến vô cùng những ước vọng thiêng liêng của con người” (AG, số 13).

Thượng Hội Đồng GM họp năm 2012 đã tái khẳng định tân phúc âm hoá là một lời kêu gọi được gửi tới mọi người và nhằm tới ba đối tượng chính:

1.Thứ nhất là người sống đạo khô khan: chúng ta có thể nhắc đến lãnh vực mục vụ thông thường, được “sinh động hoá bởi lửa của Thần Khí, để đốt cháy tâm hồn những tín hữu thường xuyên tham dự việc phụng tự cộng đoàn và tụ họp vào Ngày của Chúa để được nuôi dưỡng bằng Lời và Bánh sự sống trường sinh của Ngài”.Trong số người này chúng ta cũng có thể kể những tín hữu vẫn duy trì một đức tin sâu xa và chân thành, biểu lộ đức tin bằng các cách khác nhau, nhưng ít khi tham dự việc thờ phượng.

2. Thứ hai là người không sống đạo: “những người đã rửa tội nhưng không sống những đòi hỏi của phép Rửa”, những người thiếu một mối quan hệ có ý nghĩa với Hội Thánh và không còn cảm nghiệm niềm an ủi phát sinh bởi đức tin. Trong mối quan tâm từ mẫu của mình, Hội Thánh tìm cách giúp họ trải nghiệm một sự hoán cải để phục hồi niềm vui của đức tin cho tâm hồn họ và khơi dậy nơi họ một sự dấn thân cho Tin Mừng.

3.Thứ ba là người chưa biết Chúa: chúng ta không thể quên rằng loan báo Tin Mừng trước hết và trên hết là giảng Tin Mừng cho những người không biết Đức Giêsu Kitô hay luôn luôn chối bỏ Ngài. Nhiều người trong số họ vẫn đang âm thầm tìm kiếm Thiên Chúa, được dẫn dắt bởi ước vọng muốn thấy mặt Người, kể cả tại những nước vốn có truyền thống Kitô giáo lâu đời. Tất cả họ có quyền đón nhận Tin Mừng. Người Kitô hữu có bổn phận rao giảng Tin Mừng cho mọi người, không loại trừ bất kỳ ai. 

Một hình thức mới mà không mới mà Đức Phanxico trong tông huấn Evangelii Gaudium mời gọi chúng ta đó là loan báo Tin mừng bằng sức hút: “Thay vì tỏ ra muốn áp đặt những bó buộc mới, người Kitô hữu phải tỏ ra như là những người muốn chia sẻ niềm vui của mình, chỉ ra một chân trời của cái đẹp, và mời gọi mọi người khác tới dự một bữa tiệc ngon. Hội Thánh phát triển không phải bằng việc chiêu dụ, nhưng “bằng sức thu hút” (EG, số 14). 

Vào thời chúng ta, lệnh truyền của Chúa Giêsu: “Anh em hãy đi thu thập môn đệ” vẫn là lời mời gọi cho sứ mạng loan báo Tin Mừng của Hội Thánh trong khung cảnh đổi thay và đầy thách thức mới, và tất cả chúng ta được kêu gọi tham gia vào cuộc “đi ra” truyền giáo mới này. Mỗi Kitô hữu và mỗi cộng đoàn phải nhận ra con đường mà Chúa chỉ cho, nhưng tất cả chúng ta phải vâng theo tiếng gọi của Ngài là ra đi từ vùng đất tiện nghi của mình để đến với mọi vùng “ngoại vi” đang cần ánh sáng Tin Mừng (EG, số 20).

A - Ad Gentes: truyền giáo là bản chất của Giáo Hội

1- Chủ đích của việc rao giảng Tin Mừng

Chủ đích của việc rao giảng Tin Mừng là loan báo về “Đấng được Chúa Cha thánh hóa và sai xuống trần gian” (x. Ga 19,36). Ngài đã nói về chính mình rằng: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Ngài đã xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho những người nghèo khó…(Lc 4,18). Những gì Chúa đã một lần rao giảng hay đã thực hiện để cứu rỗi nhân loại, phải được công bố và loan truyền, bắt đầu từ Giêrusalem cho đến tận cùng trái đất, như thế những gì đã được thực hiện chỉ một lần để cứu rỗi mọi người, sẽ có hiệu lực cho toàn thể nhân loại qua mọi thời đại (AG, số 3).

Đồng thời, chủ đích của hoạt động truyền giáo cũng là việc gầy dựng cộng đoàn nơi các dân tộc hay những cộng đồng chưa có sự hiện diện của Giáo Hội (AG, số 6).

Ad Gentes số 8 khẳng định rằng “Không ai có thể nhờ sức riêng để tự giải thoát khỏi tội lỗi và thắng vượt chính mình, cũng không ai hoàn toàn thoát khỏi sự yếu đuối, nỗi cô đơn hay tình trạng nô lệ, trái lại, mọi người đều cần đến Chúa Kitô là mẫu gương và là Thầy dạy, là Đấng giải thoát, Đấng cứu độ và là Đấng ban sự sống” (AG, số 8). Vì vậy, loan báo Tin Mừng là hơi thở của Giáo Hội. 

2- Ai là người LBTM ?

Loan báo Tin Mừng không phải là của riêng ai mà “toàn thể Giáo Hội đều phải truyền giáo và công cuộc Phúc Âm hóa là nhiệm vụ căn bản của đoàn Dân Chúa, vì thế, Thánh Công Đồng mời gọi mọi người thực hiện cuộc canh tân từ nội tâm, để khi đã ý thức sâu sắc về trách nhiệm của mỗi người trong việc truyền bá Tin Mừng, tất cả cùng tham gia vào công cuộc truyền giáo cho muôn dân” (AG, số 35).

Chính vì thế “phận vụ chính của giáo dân, nam cũng như nữ, là làm chứng về Chúa Kitô bằng cách sống cũng như bằng lời nói, trong gia đình, trong các đoàn thể xã hội, cũng như trong môi trường nghề nghiệp. Họ cũng phải gieo rắc niềm tin vào Chúa Kitô nơi những người có chung môi trường sống hay cùng chung ngành nghề; đây là một nhiệm vụ khẩn thiết vì nhiều người chỉ có thể nghe Tin Mừng và nhận biết Chúa Kitô nhờ những giáo dân sống gần bên họ” (AG, số 21). 

Tuy nhiên, không phải chỉ cần hiện diện và được thiết lập trong một dân tộc nào đó, hay chỉ cần làm việc tông đồ bằng gương lành là đã đủ, nhưng đoàn dân Kitô hữu được thiết lập và hiện diện chính là để dùng lời nói và việc làm loan báo Chúa Kitô cho anh chị em đồng bào ngoài Kitô giáo, và giúp họ đón nhận Chúa Kitô cách trọn vẹn (AG, số 15).

Cũng thế, liên quan đến việc truyền giáo cho lương dân, phải thật sự đề cao công lao to lớn của đội ngũ giảng viên giáo lý, nam cũng như nữ, những người thấm nhuần tinh thần tông đồ, đã vất vả rất nhiều để mang lại sự hỗ trợ đặc biệt và vô cùng cần thiết cho việc truyền bá đức tin và mở rộng Giáo Hội (AG, số 17).

3- Tại sao phải LBTM khi Công đồng Vaticanô II khẳng định những người ở ngoài Giáo Hội cũng có thể được cứu độ?

Thật vậy, những ai không vì lỗi của mình mà chưa biết đến Tin Mừng của Đức Kitô và Giáo Hội Người, nhưng lại thành tâm tìm kiếm Thiên Chúa, và dưới tác động của ơn thánh, họ cố gắng hành động để chu toàn thánh ý Thiên Chúa được biểu lộ qua mệnh lệnh của lương tâm, thì vẫn có thể đạt được ơn cứu độ vĩnh cửu. Cả những người không vì lỗi của mình mà chưa nhận biết Thiên Chúa cách rõ ràng, nhưng cố gắng sống đời chính trực, dĩ nhiên là với ơn Chúa, thì Chúa Quan Phòng cũng không từ chối ban ơn trợ lực cần thiết để họ được cứu độ (LG, số 16). 

Chúng ta có bổn phận loan báo Tin Mừng để mọi người được biết Đức Kitô là Đấng Cứu độ do Thiên Chúa sai đến. Mỗi người có quyền từ chối hay đón nhận, và phải chịu trách nhiệm về chọn lựa của mình. Riêng đối với những ai vì lý do nào đó (không phải do lỗi của họ) mà không biết Tin Mừng ấy, thì Chúa sẽ phán xét họ theo cuộc sống của họ. Nếu họ cố gắng sống theo tiếng lương tâm, họ có thể được Chúa ban ơn cứu độ. 

Dù những người chưa biết Chúa cũng có thể được ơn cứu độ, chúng ta vẫn vui sướng được LBTM cho mọi người. Được biết Đức Giêsu một cách rõ ràng là hạnh phúc lớn. Chúng ta không muốn giữ hạnh phúc đó cho riêng mình. Hơn nữa, niềm tin minh nhiên vào Đức Giêsu làm cho con người được gắn bó chặt chẽ với Đấng Cứu độ do Thiên Chúa sai đến, nhờ đó họ có thể được ơn cứu độ một cách “vững chắc” hơn.

Vì thế, vâng lệnh Chúa Kitô, đồng thời được ân sủng và tình yêu của Chúa Thánh Thần thúc đẩy, Giáo Hội thực thi sứ mệnh, khi thực sự hiện diện giữa mọi người và mọi dân tộc, bằng cách hoạt động để nhờ gương mẫu đời sống, lời giảng dạy, các bí tích và những phương thế trao ban ân sủng khác, dẫn đưa tất cả đến với đức tin, đón nhận ơn giải thoát và bình an của Chúa Kitô, nhờ đó mở ra con đường thông suốt và vững chắc giúp họ thông dự trọn vẹn vào mầu nhiệm Chúa Kitô (AG, số 5). 

B- Đức Phaolô VI, tông huấn Evangelii Nuntiandi

Tông huấn ra đời trong bối cảnh kết thúc năm thánh, kỉ niệm mười năm bế mạc Công Đồng Vatican II và vấn đề Phúc âm hóa của Thượng hội Đống Giám Mục năm 1974. Qua tông huấn này ngài muốn khuyến khích các Ki-tô hữu trong sứ mệnh phúc âm hóa để họ thêm lòng yêu mến, nhiệt thành và hân hoan mà chu toàn sứ mệnh loan báo Tin Mừng. Mọi Kito hữu đều được mời gọi trở thành những sứ giả Tin Mừng.

1-Sứ giả Tin Mừng, những chứng nhân chân thực

Thời nay, người ta thường hay lặp đi lặp lại rằng thế kỷ này thèm khát sự chân thực. Nhất là đối với giới trẻ, người ta nói rằng họ ghê tởm sự giả trá, ngụy tạo và trên hết mọi sự họ tìm kiếm sự thật, sự trong suốt (EN, số 76).

Những “thời điểm này” phải làm cho chúng ta tỉnh thức. Người ta vẫn luôn luôn đặt câu hỏi cách âm thầm hay lớn tiếng: “Anh có thực sự tin điều anh loan truyền không ? Anh có sống đều anh tin không? Anh có thực sự rao giảng điều anh sống không ? Hơn bao giờ hết, cái chứng tích đời sống đã trở nên một điều kiện thiết yếu cho hiệu quả thâm sâu của việc rao giảng. Chính vì thế, chúng ta đây, trong một mức độ nào đó, đều có trách nhiệm về bước tiến của Tin Mừng mà chúng ta loan truyền….

Trong sự đòi hỏi khắt khe của công cuộc loan báo Tin Mừng bằng những chứng nhân chân thực, ngài nhắn nhủ các chư huynh trong hàng Giám Mục là những người đã được Thánh Thần cắt đặt để điều khiển Giáo Hội (Cvtđ 20,28). Các Linh Mục và các Phó tế, những cộng tác viên của Giám Mục trong việc tụ tập dân Chúa và cổ võ đời sống thiêng liêng của các cộng đoàn địa phương. Các tu sĩ, những chứng nhân của một Giáo Hội được mời gọi nên thánh và là những người tận hiến làm chứng cho các mối phúc thật. Các gíao dân: các gia đình Công Giáo, những người trẻ và những người trưởng thành, tất cả những người đang làm việc trong bất cứ ngành nghề nào, những người lãnh đạo, cả những người nghèo khổ nhưng thường giàu lòng tin cậy, tất cả mọi giáo dân đang ý thức về vai trò rao giảng Tin Mừng để phục vụ Giáo Hội hoặc giữa lòng xã hội và thế giới. (mọi thành phần đều được mời gọi để loan báo tin mừng)

Và cuối cùng ngài nhắn nhủ với tất cả mọi người: lòng nhiệt thành truyền giáo của chúng ta phải được xuất phát từ sự thánh thiện thật sự của một cuôc sống được nuôi dưỡng bằng cầu nguyện, và nhất là bằng lòng yêu mến đối với phép Thánh Thể. Hơn nữa, như Công Đồng đã nêu rõ việc rao giảng cũng phải làm cho người rao giảng lớn lên trong đường thánh thiện (EN, số 76).

2-Sứ giả Tin Mừng, người xây dựng hiệp nhất

Sức mạnh của việc rao giảng Tin Mừng sẽ giảm sút nhiều nếu những người loan truyền chia rẽ nhau bằng mọi rạn nứt. Phải chăng đó không phải là một khó khăn lớn cho việc phúc âm hóa ngày nay ? Lời di chúc thiêng liêng của Chúa cho chúng ta hiểu rằng sự hiệp nhất giữa các môn đệ Ngài không những chỉ là bằng chứng chúng ta là môn đệ Ngài, nhưng còn là bằng chứng Ngài được Chúa Cha sai đến và đó cũng là trắc nghiệm về sự đáng tin của các Kitô hữu và của chính Đức Kitô (EN, số 77).

Là những người rao giảng Tin Mừng, chúng ta phải đưa ra cho các tín hữu của Đức Kitô, không phải hình ảnh của những con người bị chia rẽ bởi những tranh chấp không chút xây dựng, nhưng là hình ảnh của những con người trưởng thành trong Đức tin, có khả năng gặp nhau bên trên những căng thẳng thực tế, nhờ việc cùng nhau tìm kiếm chân lý cách chân thành và vô vị lợi. Đúng thế, số phận của việc rao giảng Tin Mừng liên kết chặt chẽ với chứng tá hiệp nhất của Giáo Hội. Đó vừa là nguồn trách nhiệm và cũng là nguồn an ủi.

Về điểm này, Ta muốn nhấn mạnh rằng, dấu chỉ hiệp nhất giữa các Kitô hữu là đường lối và khí cụ của việc Phúc Âm hóa. Việc chia rẽ giữa các Kitô hữu là một tình trạng nghiêm trọng làm hoen ố công cuộc của Chúa Kitô. …

3-Sứ giả Tin Mừng, người phục vụ của chân lý 

Tin Mừng mà chúng ta có trọng trách rao giảng cũng là lời chân lý. Chân lý đem lại tự do (Ga 8,32) và chỉ nó mới ban sự bình an tâm hồn, đó chính là những điều người ta tìm kiếm khi đến nghe chúng ta rao giảng Tin Mừng. Chân lý về Thiên Chúa, chân lý về con người và số phận huyền nhiệm của con người, chân lý về thế gian. Đó là chân lý khó khăn mà chúng ta tìm được trong Lời Chúa và chúng ta không phải là chủ, là người sở hữu nhưng chỉ là người quản lý, người phát ngôn và đầy tớ phục vụ chân lý đó (EN, số 78).

4-Trở thành dấu chỉ của tình yêu: xây dựng nền văn minh tình thương

Công việc Phúc Âm hóa đòi hỏi người rao giảng phải có một tình huynh đệ luôn lớn mạnh đối với những người mình truyền giảng. Mẫu gương của người truyền giảng Tin Mừng là Thánh Phaolô tông đồ đã viết cho tín hữu Thesalonica lời sau đây mà tất cả chúng ta có thể lấy làm chương trình hành động: “Chúng tôi thật gắn bó với anh em đến nỗi không chỉ muốn chia sẻ Tin Mừng của Thiên Chúa với anh em mà còn thí cả mạng sống chúng tôi nữa, bởi chưng anh em trở nên những người thân mến của chúng tôi” (1Tx 2,8). Tình yêu này là gì ? Hơn cả tình cảm của môt nhà giáo, đó là tình yêu của một người cha và hơn thế nữa đó là tình yêu của một người mẹ. Chính Đức Kitô mong đợi nơi mỗi nhà rao giảng Tin Mừng, nơi mỗi người thợ xây dựng Giáo Hội thứ tình yêu này. Một dấu chỉ của tình yêu này chính là biết lo lắng ban phát chân lý và dẫn tới hiệp nhất. Một dấu chỉ khác đó là tận hiến hoàn toàn cho việc loan báo Đức Kitô (EN, số 79). Ta xin đề cập thêm vài dấu chỉ khác của tình yêu này trong số 79. 

Trước hết là tôn trọng tình trạng tôn giáo và tinh thần của những người mà ta rao giảng. Tôn trọng tiết điệu của họ mà ta không có quyền cưỡng ép. Tôn trọng lương tâm và xác tín của họ để không cưỡng bách họ.

Một dấu chỉ khác của tình yêu này là biết lo lắng không làm tổn thương người khác, nhất là những người còn yếu đức tin (x, 1Cr 8,9-13; Rm 14,15) bằng những lời nói tuy có thể rõ ràng đối với những người thông thạo, nhưng đối với các tín hữu thì đó có thể là nguồn bối rối và vấp phạm như một vết thương lòng.

Trước tiên Tin Mừng phải được công bố bằng chứng tá. Chẳng hạn giữa cộng đoàn nhân loại mà họ đang sống, một Kitô hữu hay một nhóm Kitô hữu, biểu lộ khả năng cảm thông và đón nhận, chia sẻ đời sống và số phận với những người khác, tỏ tình liên đới trong những nỗ lực chung nhằm đạt được những gì là cao qúy và tốt đẹp nhất. Hoặc là, một cách thực đơn giản và tự nhiên, họ chiếu tỏa niềm tin của mình nơi những gía trị vượt xa những giá trị thông thường, niềm trông cậy vào điều mà người khác không thấy và có lẽ không dám mơ tưởng tới. Nhờ chứng tá không lời này, Kitô hữu gợi lên những vấn nạn bất khả kháng trong tâm hồn những kẻ trông thấy họ sống: Tại sao họ là những người như thế ? Tại sai họ sống như vậy ? Cái gì hoặc ai đã thôi thúc họ ? Tại sao họ ở giữa chúng ta ? Một chứng tá như vậy đã là sự công bố Tin Mừng tuy thầm lặng nhưng rất mãnh liệt và hiệu nghiệm. Đó là động tác khai mào của việc Phúc Âm hóa. Đó có thể là những vấn nạn đầu tiên mà nhiều người không thật sự là Kitô hữu đặt ra, họ là những người chưa bao giờ được nghe nói về Đức Kitô, họ là những người đã chịu phép rửa nhưng không hành đạo, họ là những người sống trong cộng đoàn Kitô hữu nhưng lại không hề theo những nguyên tắc Kitô giáo, hoặc là những vất vả tìm kiếm một cái gì hay một Đấng nào đó mà họ đoán là có, nhưng không thể biết tên là gì. Rồi sẽ có những vấn nạn khác sâu xa hơn, đòi hỏi hơn, phát sinh từ chứng tá ấy, một chứng tá bao gồm sự hiện diện, sự chia sẻ, tình liên đới. Chứng tá đó là một yếu tố chính yếu, tiên quyết của việc Phúc Âm hóa.

Mọi Kitô hữu đều được kêu gọi sống chứng tá đó và như thế họ có thể là những người rao giảng Tin Mừng đích thực. Ta đặc biệt nghĩ đến trách nhiệm của những người di cư trong những xứ tiếp nhận họ.

C- Đức Gioan Phaolo II: Giáo Hoàng của những chuyến công du

Đức Phaolo VI đã ra khỏi nước Ý, và Đức Gioan Phaolo II là người mang lại ý nghĩa cho việc ra khỏi nước Ý. ĐGH Gioan-Phaolô II đã “chạm” đến cuộc đời xa hơn biên giới của Giáo Hội. Ngài giúp thay đổi thế kỷ XX bằng vai trò chủ đạo. Qua việc thể hiện niềm tin tôn giáo sâu sắc, dựa trên lòng tôn trọng đối với từng cá nhân mong muốn tìm kiếm chân lý, vị Giáo Hoàng đặc biệt xuất thân từ Ba lan đã biểu lộ lòng nhân đạo và giúp mọi người biết cách xử lý các hiểm hoạ đe doạ thế kỷ XXI. Lúc sinh thời, ĐGH Gioan-Phaolô II đã được coi là vị thánh sống, hiện thân của lòng nhân hậu. Người ta gọi Ngài là “Giáo hoàng của mọi thời đại”.

Trong tông huấn Sứ Vụ Đấng Cứu Thế, ngài nói Giáo Hội là truyền giáo do tự bản tính, chứ không do từ mệnh lệnh của Chúa Kitô.

Lý do căn bản của việc truyền giáo là sự mạc khải cuối cùng mà Thiên Chúa đã mạc khải về chính mình trong Đức Giêsu Kitô, vì thế tự bản tính, Giáo Hội có tính cách thừa sai. Giáo Hội không thể không loan báo Tin Mừng, tức chân lý toàn vẹn mà Thiên Chúa đã tỏ bày (RM, số 5)

Một nét độc đáo của thần học được canh tân là sự liên kết chặt chẽ giữa mạc khải Tin mừng của Tình yêu Thiên Chúa đối với mọi người và sự cấp bách phải truyền giáo: “Giáo Hội không được phép từ bỏ việc loan báo rằng Chúa Giêsu đã đến mạc khải Dung Mạo của Thiên Chúa, qua Thập Giá và Phục Sinh, Người đã đem lại Ơn Cứu Độ cho mọi người.. . sự sống mới trong Người là Tin Mừng cho con người thuộc mọi thời đại.. .” ( RM, số 11).

Tiếp nối chủ đề “ Ðức Giêsu Kitô, Ðấng Cứu độ, với sứ mạng yêu thương và phục vụ tại Á Châu, để cho họ được sống và được sống dồi dào" của Thượng Hội Đồng Giám Mục Á Châu, Đức Gioan Phaolo II muốn mời gọi Giáo Hội Tại Á Châu xây dựng một nền văn minh tình thương và sự sống qua việc dành tình thương yêu tiên cho người nghèo (x. EA, số 34) và phục vụ sự sống ( x. EA, số 35).

Nhưng để có thể xây dựng được một nền văn minh tình thương và sự sống, ngài đòi hỏi toàn thể Giáo Hội phải trở thành “chứng tá Kitô hữu chính hiệu, bởi vì "ngày nay dân chúng tin các chứng nhân hơn là các Thầy dạy, tin vào kinh nghiệm hơn là lời giảng dạy, và tin vào đời sống và hành động hơn là vào lý thuyết". Điều này càng đúng trong bối cảnh Á Châu, nơi mà dân chúng được thuyết phục do đời sống thánh thiện hơn là do lý lẽ trí thức (x. EA, số 42).

D- Ad Gentes đến THĐGMTG và Liên HĐGM Á Châu

1- Sứ giả Tin Mừng, bạn là ai

Biết mình bất xứng, cần hoán cải, nhưng xác tín vào sức mạnh của Thánh Thần. 

(Trích Sứ điệp THĐGMTG 2012 về Tân Phúc Âm Hóa, s. 5) 

[5] … Để có thể Phúc Âm hóa thế giới, trước tiên Giáo Hội phải đặt mình lắng nghe Lời Chúa. Lời mời gọi Phúc Âm hóa được thể hiện thành một tiếng gọi hoán cải.

Chúng ta chân thành cảm thấy bổn phận hoán cải bản thân trước tiên theo sức mạnh của Chúa Kitô, Đấng duy nhất có khả năng canh tân mọi sự, nhất là cuộc sống nghèo nàn của chúng ta. Cách khiêm tốn, chúng ta phải nhìn nhận rằng những nghèo nàn và yếu hèn của các môn đệ của Chúa Giêsu, cách riêng của các thừa tác viên của Ngài, đè nặng trên tính khả tín của việc truyền giáo. Chắc chắn, chúng ta ý thức, trước tiên các giám mục chúng tôi, không bao giờ có thể xứng với lời kêu gọi của Chúa và với việc gìn giữ Tin Mừng mà Ngài giao phó cho chúng ta để loan báo Ngài cho muôn dân. 

2- Vị sứ giả Tin Mừng, bạn được sai đến đâu 

Đến với một thế giới đầy thách đố, nhưng đồng thời có nhiều cơ hội 

(trích Sứ điệp THĐGMTG 2012 về Tân Phúc Âm Hóa, s. 6)

[6] Chúng ta không cảm thấy bị đe dọa bởi những điều kiện của thời đại chúng ta đang sống. Đó là một thế giới đầy những mâu thuẫn và những thách đố, nhưng nó vẫn là công trình tạo dựng của Thiên Chúa, chắc chắn bị sự dữ làm tổn thương, nhưng luôn được Thiên Chúa yêu thương, trong đó có thể nảy sinh một lần nữa hạt giống của Lời Chúa để nó có thể mang lại hoa trái mới.

3- Bạn được sai đến với ai

Kề cận với những ai đang khát khao ý nghĩa trọn vẹn cho cuộc sống 

(trích Sứ điệp THĐGMTG 2012 về Tân Phúc Âm Hóa, s. 1)

[1]… Chúng tôi để cho một trang Tin Mừng soi sáng chúng tôi: cuộc gặp gỡ của Chúa Giêsu với người phụ nữ Samaritanô bên giếng nước Gia-cóp (x. Ga 4, 5-42). Không có người nam hay người nữ nào mà, vào một thời điểm nào đó trong đời mình, không ở gần bên một giếng nước với một cái vò rỗng và niềm hy vọng tìm được sự thể hiện khát vọng sâu xa nhất của tâm hồn, niềm hy vọng duy nhất có thể mang lại ý nghĩa trọn vẹn cho cuộc sống. Ngày nay, có nhiều giếng nước được đề tặng cho cơn khát của con người, nhưng một sự phân định là cần thiết để tránh những thứ nước ô nhiễm.

Đến với những người đã rời xa đức tin

(trích Sứ điệp THĐGMTG 2012 về Tân Phúc Âm Hóa, s. 2)

[2] Dẫn đưa con người của thời đại này đến với Chúa Giêsu, đến gặp gỡ với Ngài, là một sự cấp bách liên quan đến mọi vùng đất trên thế giới, những vùng đất hoàn toàn gần đây cũng như những vùng đất được Phúc Âm hóa xưa. Quả thế, khắp nơi đều cảm thấy nhu cầu làm tươi mới lại một đức tin đang có nguy cơ mờ tối đi trong những khung cảnh văn hóa làm ngăn trở sự bén rễ cá nhân, sự tỏa sáng xã hội, sự sáng sủa nội dung và những hoa trái tương hợp của nó…

4- bạn thi hành sứ vụ như thế nào

a- Đối thoại, một phương cách sống và thi hành sứ vụ.

(Trích Sứ điệp Liên HĐGM Á Châu 2012 về Canh Tân Sứ giả TM, s. 5)

[5] Công cuộc Tân Phúc âm hóa kêu gọi lấy tinh thần đối thoại thúc đẩy cuộc sống hằng ngày và chọn tương quan hòa hợp chứ không đối đầu. Ðối thoại phải là tiêu chí cho mọi hình thức thực thi sứ vụ và phục vụ tại châu Á. Ðặc trưng của đối thoại là khiêm tốn nhận ra sự hiện diện kín đáo của Thiên Chúa trong cuộc tranh đấu của người nghèo, trong sự phong phú về văn hóa của nhân dân, trong sự đa dạng về truyền thống tôn giáo và trong thẳm sâu cõi lòng mỗi người. Ðối thoại như thế là lối sống và phương cách truyền giáo của chúng ta. Ðối thoại trở thành nền tảng cho nền linh đạo hiệp thông nhằm canh tân sứ giả Tin Mừng.

b- Hiện diện khiêm hạ.

(Trich Sứ điệp Liên HĐGM Á Châu 2012 về Canh Tân Sứ giả TM, s. 6) 

[6] Chúng tôi tin rằng mỗi người châu Á đều dự phần và đồng hành trong cuộc hành trình tiến đến Nước Thiên Chúa, và tin rằng những cánh đồng truyền giáo là những thửa đất có sự hiện diện và hoạt động lạ lùng của Thánh Thần Thiên Chúa. Trên cánh đồng truyền giáo bao la tại châu Á, chứng từ lặng lẽ nhưng hùng hồn của đời sống Kitô hữu đích thực đòi phải biết hiện diện trong khiêm hạ, biết sống đối thoại, trong đó bao gồm cuộc sống cầu nguyện và "chiêm niệm". Ðó là yêu cầu đặt ra cho các sứ giả mới của Tin Mừng, hoạt động giữa những nền văn hóa đề cao sự bỏ mình và quý trọng cầu nguyện. Sự hiện diện khiêm hạ phải được thể hiện bằng nếp sống giản dị và liên kết với người nghèo. 

5- Vai trò ngôn sứ

a. Vai trò ngôn sứ của người truyền giáo. 

( Trích (Sứ điệp Liên HĐGM Á Châu 2012 về Canh Tân Sứ giả TM, s. 7)

[7] Trở nên ngôn sứ là trong ánh sáng của Chúa Thánh Thần, nhận diện những nghịch lý tại châu Á và tố cáo bất cứ những gì làm suy yếu, hạ thấp giá trị và tước bỏ phẩm giá của con cái Thiên Chúa. Những sứ giả mới của Tin Mừng phải bảo vệ phẩm giá làm người của tất cả mọi người, nhất là của phụ nữ, trẻ em và những người không có đủ điều kiện sống cho ra con người trong xã hội châu Á chúng ta. Qua việc tố cáo bất công, những sứ giả mới của Tin Mừng loan báo tình yêu của Thiên Chúa, "những điều quan trọng hơn trong Lề Luật" tức là là công bình, lòng nhân từ và thành tín (Mt 23, 23), và tình yêu được Chúa Giêsu dành ưu tiên cho người nghèo. 

b. Liên đới với những nạn nhân. 

( Trích Sứ điệp Liên HĐGM Á Châu 2012 về Canh Tân Sứ giả TM, s. 8)

[8] Trong Hội nghị, chúng tôi đã lưu ý con số các nạn nhân của quá trình toàn cầu hóa, của bất công, của thảm họa hạt nhân và thiên tai, của những cuộc tấn công do những kẻ cực đoan và khủng bố gây ra, con số ấy đang gia tăng từng ngày. Chúa Giêsu đứng về phía nạn nhân của các thảm họa và bất công. Người liên đới với những ai bị xã hội loại bỏ. Liên đới và xót thương những nạn nhân và bị gạt ra ngoài lề xã hội phải trở thành chiều kích chính yếu của linh đạo Tân Phúc âm hóa. 

E- Evangelii Gaudium

Sau năm mươi năm Công Đồng Vatican II, Đức Giáo Hoàng Phanxico cho ra tông huấn Niềm Vui của Tin Mừng. Tông huấn này vừa như phác họa lại những bước đường cơ bản Giáo Hội đã đi, nhưng đồng thời cũng đưa ra những gợi ý cụ thể cho công cuộc loan báo Tin Mừng của Giáo Hội đầu thế kỷ 21. Cụ thể Giáo Hội phải được gây dựng được những cộng đoàn tràn đầy niềm vui và niềm vui ấy sẽ lan tỏa ra đến tận các vùng ngoại biên, qua việc gặp gỡ văn hóa và chiếu tỏa lòng thương xót.

1- Gây dựng cộng đoàn rao giảng TM

(Đức Phanxicô, Tông Huấn Evangelii Gaudium, s.24)

Hội Thánh “đi ra” là một cộng đoàn các môn đệ truyền giáo đi bước trước, dấn thân và nâng đỡ, sinh hoa trái và vui mừng. Một cộng đoàn loan báo Tin Mừng biết rằng Chúa đã có sáng kiến, Ngài đã yêu chúng ta trước (xem Ga 4:19), và vì thế chúng ta có thể dấn bước, mạnh dạn có sáng kiến, đến với người khác, tìm kiếm những người sa ngã, đứng ở các ngả đường để đón mời những người bị gạt ra bên lề. Một cộng đoàn như thế có một ước muốn khôn nguôi là tỏ lòng thương xót, kết quả của kinh nghiệm bản thân của cộng đoàn về sức mạnh lòng thương vô biên của Thiên Chúa. Chúng ta hãy thử cố gắng hơn một chút để đi bước trước và dấn thân. Đức Giêsu đã rửa chân cho các môn đệ. Chúa dấn thân và mời gọi các môn đệ dấn thân, khi Ngài cúi xuống rửa chân họ. Ngài bảo các môn đệ: “Nếu anh em thực hành, thì phúc cho anh em!” (Ga 13:17). Một cộng đoàn loan báo Tin Mừng dấn mình vào đời sống hằng ngày của dân chúng bằng lời nói và hành động; cộng đoàn ấy vượt qua các khoảng cách, sẵn sàng hạ mình khi cần, và ôm ấp đời sống con người, chạm vào thân thể đau khổ của Đức Kitô nơi người khác. Như vậy, các người loan báo Tin Mừng mang lấy “mùi của đàn chiên” và đàn chiên sẵn sàng nghe tiếng của họ. 

Một cộng đoàn loan báo Tin Mừng cũng nâng đỡ, đồng hành với dân chúng ở mỗi bước đi trên đường, bất kể con đường này có thể dài hay khó đi bao nhiêu. Cộng đoàn này cũng quen với việc kiên nhẫn chờ đợi và sự chịu đựng tông đồ. Loan báo Tin Mừng phần lớn hệ tại sự kiên nhẫn và không quan tâm tới áp lực của thời gian. Trung thành với ơn Chúa, nó cũng sinh hoa kết quả. Một cộng đoàn loan báo Tin Mừng luôn luôn để tâm tới kết quả, vì Chúa muốn nó sinh hoa kết quả. Nó chăm sóc hạt giống và không mất kiên nhẫn với cỏ dại. Người gieo giống khi thấy cỏ dại mọc lên giữa hạt giống thì không càu nhàu hay phản ứng thái quá. Họ tìm cách để cho Lời được nhập thể trong một hoàn cảnh nhất định và phát sinh những hoa quả của đời sống mới, dù những kết quả này có vẻ chưa hoàn hảo hay đầy đủ. Người môn đệ sẵn sàng mạo hiểm đời mình, thậm chí chấp nhận tử đạo, để làm chứng cho Đức Giêsu, nhưng mục tiêu không phải là muốn có kẻ thù, mà là để thấy Lời của Thiên Chúa được chấp nhận và sức mạnh giải thoát và đổi mới của Lời được tỏ lộ. 

Sau cùng, một cộng đoàn loan báo Tin Mừng thì chan chứa niềm vui; nó biết cách để luôn luôn vui mừng. Nó ăn mừng trước mỗi chiến thắng nho nhỏ, mỗi bước tiến trong công cuộc loan báo Tin Mừng. Hân hoan loan báo Tin Mừng trở thành cái đẹp của phụng vụ, như một phần mối quan tâm hằng ngày của chúng ta trong việc làm lan tỏa lòng nhân hậu. Hội Thánh vừa giảng Tin Mừng vừa được nghe giảng Tin Mừng qua vẻ đẹp của phụng vụ, vì phụng vụ vừa là cử hành công việc rao giảng Tin Mừng, vừa là nguồn mạch canh tân hành vi trao hiến của Hội Thánh.

2- Gầy dựng giáo xứ hướng về truyền giáo 

(Đức Phanxicô, Tông Huấn Evangelii Gaudium, s. 28)

Giáo xứ không phải là một cơ chế lỗi thời; lý do chính là nó có tính linh động cao, nó có thể tiếp thu những tình huống khá khác biệt tùy theo sự cởi mở và óc sáng tạo truyền giáo của người mục tử và của cộng đoàn. Chắc chắn giáo xứ không phải là cơ chế duy nhất loan báo Tin Mừng, nhưng nếu nó tỏ ra có khả năng tự canh tân và thích nghi không ngừng, nó vẫn tiếp tục là “Hội Thánh sống giữa các gia đình của các con trai con gái mình”. Giáo xứ là một cộng đoàn của các cộng đoàn, một thánh điện để những người khát nước đến uống dọc đường, và một trung tâm thường xuyên vươn ra truyền giáo. Tuy nhiên, phải nhìn nhận rằng lời kêu gọi duyệt lại và canh tân các giáo xứ của chúng ta vẫn chưa đủ sức đưa các giáo xứ đến gần người dân hơn, biến các giáo xứ trở thành những môi trường sống hiệp thông và tham dự, và làm cho giáo xứ trở nên hoàn toàn hướng về truyền giáo.

3. Lòng đạo đức bình dân

Trong nhiều điểm nhấn của Niềm Vui Tin Mừng, Đức Phanxico đã không quên nhắc lại tầm quan trọng của lòng đạo đức bình dân trong công cuộc loan báo Tin Mừng. Ngài nói “tầm quan trọng của lòng đạo đức bình dân, một cách diễn tả đích thực về hoạt động truyền giáo tự phát của Dân Chúa” (EG, số 122).

4- Trong Thánh Thần của Đức Chúa Phục Sinh

a. Đức Kitô Phục Sinh là nguồn gốc sâu xa của mọi niềm hy vọng 

(Đức Phanxicô, Tông Huấn Evangelii Gaudium, s. 275) 

Trong chương 2, chúng ta đã suy tư về sự thiếu vắng một linh đạo thâm sâu dẫn đến thái độ bi quan, tất định và hoài nghi. Một số người không dấn thân cho truyền giáo bởi vì họ nghĩ sẽ chẳng thay đổi được gì và có cố gắng bao nhiêu cũng vô ích. Họ nghĩ: “Sao tôi phải từ bỏ các tiện nghi và thú vui nếu tôi chẳng thấy có kết quả gì?” Thái độ này khiến người ta không thể làm người truyền giáo. Đây chỉ là một cái cớ dối trá để tiếp tục bị vướng mắc trong tiện nghi, lười biếng, bất mãn một cách vu vơ và ích kỷ, trống rỗng. Nó là một thái độ tự hủy diệt, vì “người ta không thể sống mà không có hy vọng: cuộc đời sẽ trở nên vô nghĩa và không thể chịu đựng nổi”. Nếu chúng ta nghĩ rằng không cái gì thay đổi được, chúng ta phải nhớ rằng Đức Giêsu Kitô đã chiến thắng tội lỗi và sự chết và bây giờ là Đấng toàn năng. Đức Giêsu Kitô đang sống thực sự. Nói cách khác, “nếu Đức Kitô đã không chỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng” (1 Cr 15:14). Tin Mừng kể cho chúng ta rằng khi các tông đồ bắt đầu đi rao giảng, “Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng” (Mc 16:20). Đó cũng là điều xảy ra hôm nay. Chúng ta được mời gọi khám phá và trải nghiệm điều đó. Đức Kitô sống lại và được tôn vinh là nguồn suối hy vọng của chúng ta, và Ngài sẽ không từ chối giúp đỡ chúng ta trong việc thực thi sứ mạng Ngài đã ủy thác cho chúng ta.

b. Sức sống của Đấng Phục Sinh đã thấm nhập vào thế giới

(Đức Phanxicô, Tông Huấn Evangelii Gaudium, s. 276)

Sự sống lại của Đức Kitô không phải là một biến cố của quá khứ; nó chứa đựng một sức mạnh cốt thiết đã thấm nhuần thế giới này. Ở đâu mà tất cả có vẻ như đã chết, ở đó các dấu hiệu phục sinh đột nhiên xuất hiện. Đó là một sức mạnh không thể cưỡng lại được. Thường chúng ta thấy Thiên Chúa có vẻ như không hiện hữu: chúng ta thấy khắp quanh mình những cảnh bất công, tội ác, thờ ơ, tàn bạo không ngớt. Nhưng cũng đúng là giữa cảnh tối tăm luôn luôn có một cái gì mới phát sinh và sớm hay muộn sẽ sinh hoa kết quả. Trên mặt đất bị san bằng, sự sống vẫn bùng dậy một cách ngoan cường. Bất kể hoàn cảnh đen tối đến đâu, sự thiện luôn luôn xuất hiện trở lại và lan tỏa. Mỗi ngày trong thế giới của chúng ta, cái đẹp luôn luôn tái sinh, nó lớn lên xuyên qua những bão tố của lịch sử. Các giá trị luôn luôn có khuynh hướng xuất hiện trở lại dưới những dạng mới, và loài người cũng đã tái sinh hết lần này qua lần khác từ những tình huống xem như là đã tận số. Sức mạnh của sự sống lại là như thế, và tất cả những người loan báo Tin Mừng là những công cụ của sức mạnh ấy.

Kết luận

Giáo Hội Việt Nam sau hơn 400 năm truyền giáo nhưng tỉ lệ vẫn chưa tới 10% dân số. Năm mươi năm qua với biết bao thay đổi trong phương pháp truyền giáo, với ánh sáng của Vatican II, với các thông điệp về truyền giáo nhưng tỉ lệ người Công Giáo không tăng hoặc có tăng thì không đáng kể; có những nơi dậm chân tại chỗ, có những nơi suy giảm. Chúng ta cũng cần nhìn lại sau năm mươi năm khởi đầu truyền giáo: từ số không lên khoảng 150 ngàn. Đây là con số cho chúng ta suy nghĩ.

Chúng ta cần so sánh với với các tông đồ thời Hội Thánh sơ khai; so sánh với cha Đắc Lộ, những thừa sai, thầy giảng và giáo dân đầu thế kỳ 17. 

Khi đưa ra những nhận định và những gợi ý trên nhằm để chúng ta đặt ra câu hỏi là chúng ta phải làm gì? Xin hãy không đỗ lỗi cho hoàn cảnh: Múa vụng chê đất lệch!

Chúng ta hãy cùng xét mình với kinh tôi thú nhận: lỗi tại tôi mọi đàng!

Nhìn lại công cuộc truyền giáo từ Hội Thánh sơ khai cho đến hôm nay chúng ta dễ dàng nhận ra rằng khó khăn xuất hiện ở mọi thời đại.

Nhưng trong bối cảnh hiện nay, chúng ta có thể nhận thấy rõ ràng là hoàn cảnh thuận lợi hơn, nhiều phương tiện truyền giáo hơn. Nhưng chúng ta cũng có thể thấy rằng chúng ta đang sống chủ nghĩa “túm tụm”. Giáo Hội mình tốt rồi, giáo xứ mình mạnh rồi, gia đình mình thánh thiện rồi nên phải bảo vệ cái tốt, cái mạnh và cái thánh thiện đó bằng việc co cụm lại. 

Đề nghị:

Năm tới Giáo Hội sống năm Phúc Âm hóa xã hội, nhưng trước tiên cần Tân Phúc Âm hóa nội bộ để Phúc Âm hóa xã hội.

*

Thay vì những gợi ý

Vài đề nghị

1. Tập trung vào Tin Mừng về con người và xã hội 

2. Tôn kính tổ tiên

3. Hoạt động bác ái.

4. Sân chư dân

5. Gặp gỡ và đối thoại

Hướng về Trời mới đất mới (Kh 21,1)

Mỗi người chúng ta có thể có những góp ý cụ thể nữa.


+ĐGM. Cosma Hoàng Văn Đạt
Nguồn: http://vietcatholic.net/News/Html/143281.htm