Ý cầu nguyện tháng

- Ý CẦU NGUYỆN THÁNG 10:

Cầu cho sứ vụ của người giáo dân trong Giáo Hội:
Xin cho các Kitô hữu giáo dân, cách riêng là phụ nữ, khi đã lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, có thể tham gia nhiều hơn vào các cơ quan hữu trách của Giáo Hội.

Thứ Tư, 28 tháng 2, 2018

Toàn văn Sứ Điệp Ngày Giới Trẻ Thế Giới Năm 2018 của Đức Thánh Cha Phanxicô


“Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa” (Lc 1:30)


Các bạn trẻ thân mến,

Ngày Giới trẻ Thế giới năm 2018 là một bước chuẩn bị cho Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới sẽ diễn ra tại Panama vào tháng Giêng năm 2019. Giai đoạn mới này trong cuộc hành hương của chúng ta rơi vào cùng năm với Thượng Hội Đồng Giám Mục Thường Lệ về chủ đề: Người Trẻ, Đức Tin Và Sự Phân Định Ơn Gọi. Đây là một sự trùng hợp ngẫu nhiên đáng mừng. Trọng tâm, lời cầu nguyện và suy tư của Giáo hội sẽ hướng về các bạn trẻ, với mong muốn nhận được và, trên hết, là đón nhận món quà quí báu mà các bạn dành cho Thiên Chúa, cho Giáo Hội và cho thế giới.

Như các bạn đã biết, chúng ta đã chọn để cuộc hành trình này của chúng ta được đồng hành bằng gương sáng và sự cầu bầu của Mẹ Maria, người phụ nữ trẻ xứ Nazareth mà Chúa đã chọn làm Mẹ của Con Ngài. Mẹ cùng đi với chúng ta hướng tới Thượng Hội đồng Giám mục và hướng tới Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới ở Panama. Nếu năm ngoái, chúng ta được dẫn dắt bởi những lời ca khen của Mẹ - “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi những điều trọng đại” (Lc 1,49) – là những lời dạy bảo chúng ta hãy nhớ đến quá khứ, thì năm nay chúng ta cùng lắng nghe với Mẹ tiếng Chúa, Đấng khích lệ lòng can đảm và ban cho ta những ân sủng cần thiết để đáp trả lời mời gọi của Người: “Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa” (Lc 1:30). Đây là những lời được sứ thần Thiên Chúa, là Tổng Lãnh Thiên Thần Gabriel nói cùng Đức Maria, một cô gái bình thường trong một ngôi làng nhỏ ở Galilee.

1. Đừng sợ!

Chúng ta có thể hiểu được là sự xuất hiện đột ngột của Thiên Thần và lời chào bí ẩn của Ngài: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà” (Lc 1:28), đã làm cho Đức Maria bối rối, Mẹ đã rất ngạc nhiên trước sự mặc khải lần đầu tiên về căn tính và ơn gọi của mình, mà đến lúc ấy Mẹ vẫn chưa biết. Đức Maria, giống như những người khác trong Kinh Thánh, run rẩy trước mầu nhiệm trong lời mời gọi của Thiên Chúa, là Đấng trong giây phút ấy đã đặt trước Mẹ sự bao la trong kế hoạch của chính Người và làm cho Mẹ cảm thấy tất cả sự nhỏ bé của mình như một sinh vật khiêm tốn. Thánh Thiên Thần, nhìn thấu sâu thẳm con tim Mẹ, nên nói: “Đừng sợ!” Thiên Chúa cũng đọc thấu tận cùng tâm hồn của chúng ta. Người biết rõ những thách đố mà chúng ta phải đối mặt trong cuộc sống, đặc biệt là khi chúng ta phải đối mặt với những lựa chọn cơ bản quyết định chúng ta sẽ là gì và sẽ làm gì trong thế giới này. Đó là cái “rùng mình” mà chúng ta cảm thấy khi phải đối mặt với những quyết định về tương lai, điều kiện sống, và ơn gọi của chúng ta. Trong những giây phút như thế chúng ta thấy mình bối rối và bị tóm lấy bởi bao nhiêu những nỗi sợ.

Và hỡi các bạn trẻ, nỗi lo sợ của các bạn là gì? Điều gì làm các bạn lo lắng nhất? Một nỗi sợ hãi “tiềm tàng” của nhiều bạn là lo sợ mình không được yêu, không được ái mộ hay không được chấp nhận trong tình trạng như mình hiện là. Ngày nay, có rất nhiều người trẻ cảm thấy cần phải khác với những gì họ thực sự đang có, trong một nỗ lực để thích ứng với một tiêu chuẩn thường khi là giả tạo và không thể vươn tới được. Họ liên tục “photo-shop” hình ảnh của mình, núp đằng sau những mặt nạ và những bản sắc giả, đến mức gần như làm giả chính bản thân mình. Nhiều người bị ám ảnh bởi việc càng nhận được nhiều cái “likes” càng tốt. Nhiều nỗi sợ hãi và những bất định xuất hiện từ cảm thức thấy mình không thích hợp này. Những người khác sợ rằng họ sẽ không thể tìm thấy một sự an toàn về tình cảm và rằng họ sẽ mãi mãi cô đơn. Nhiều người, đối diện với sự bấp bênh của công ăn việc làm, sợ không thể tìm được một vị trí nghề nghiệp thỏa đáng, hoặc không thể hoàn thành ước mơ của họ. Ngày nay, một số lượng lớn thanh thiếu niên cảm thấy đầy những nỗi sợ, cả những người có niềm tin lẫn những người vô tín ngưỡng. Thật vậy, những người đã đón nhận hồng ân đức tin và tìm kiếm ơn gọi của mình một cách nghiêm túc cũng không được miễn trừ khỏi những nỗi sợ. Một số người nghĩ: có lẽ Chúa đang yêu cầu hoặc sẽ đòi hỏi nơi tôi quá nhiều; hay có lẽ là, nếu tôi đi theo con đường Người đã vạch ra cho tôi, tôi sẽ không thực sự được hạnh phúc, hoặc tôi sẽ không thể làm những gì Người yêu cầu nơi tôi. Những người khác lại nghĩ: nếu tôi đi theo con đường mà Chúa chỉ cho tôi, ai có thể đảm bảo rằng tôi sẽ có thể đi đến tận cùng trên con đường đó? Liệu tôi sẽ nản lòng chăng? Liệu tôi có đánh mất đi nhiệt tình của mình không? Liệu tôi có thể bền đỗ suốt trọn đường đời tôi không?

Trong những khoảnh khắc khi những hoài nghi và nỗi sợ hãi tràn ngập con tim chúng ta, sự phân định là cần thiết. Nó cho phép chúng ta khống chế sự hoang mang trong những suy nghĩ và cảm xúc của chúng ta, để chúng ta có thể hành động một cách chính đáng và thận trọng. Trong quá trình này, bước đầu tiên để vượt qua những nỗi sợ là xác định chúng một cách rõ ràng, để không thấy mình lãng phí thời gian và sức lực đương đầu với những bóng ma hư vô. Và vì vậy, tôi mời gọi tất cả các bạn nhìn sâu trong tâm hồn mình và gọi “đích danh” những nỗi sợ hãi của các bạn. Hãy tự hỏi: điều gì làm tôi phiền lòng, điều gì làm tôi sợ nhất trong thời điểm cụ thể này của cuộc sống hôm nay? Điều gì cản trở tôi và ngăn cản tôi tiến lên phía trước? Tại sao tôi thiếu can đảm để đưa ra những lựa chọn quan trọng tôi cần phải làm? Đừng sợ phải đối mặt với những nỗi sợ của các bạn một cách trung thực, để nhận ra chúng là những gì và đối phó với chúng ra sao. Kinh Thánh không bỏ qua kinh nghiệm của con người về sự sợ hãi cũng chẳng bỏ qua những nguyên nhân đa dạng của chúng. Tổ phụ Ápraham đã sợ (xem Sáng-thế Ký 12: 10), Giacóp cũng từng sợ (xem Sáng thế Ký 31:31, 32: 7), Môise (xem Cô-rinh-tô 2:14, 17: 4), Thánh Phêrô (xem Mt. 26: 69ff) và các Thánh Tông Đồ (xem Mc 4: 38-40; Mt 26:56) cũng từng lo buồn. Chính Chúa Giêsu, mặc dù trong một cách thế không thể so sánh được, cũng từng sợ hãi và buồn sầu thống thiết (xem Mt 26:37, Lc 22:44).

“Sao nhát thế? Sao anh em vẫn chưa có lòng tin như thế?” (Mc 4:40). Khi khuyên nhủ các môn đệ của mình, Chúa Giêsu giúp chúng ta hiểu được lý do tại sao trở ngại chính cho đức tin thường không phải là sự hoài nghi nhưng chính là sự sợ hãi. Như thế, chúng ta hiểu được rằng việc phân định giúp nhận ra những nỗi sợ của chúng ta, và sau đó, có thể giúp chúng ta vượt qua chúng, mở đường cho chúng ta đến với sự sống và giúp chúng ta bình tĩnh đối mặt với những thách thức đang xảy đến với mình. Đối với chúng ta đặc biệt là các Kitô hữu, những nỗi sợ không bao giờ có tiếng nói chung cuộc nhưng trái lại nên là một dịp tốt để thể hiện đức tin nơi Thiên Chúa... và nơi cuộc sống! Điều này có nghĩa là tin tưởng vào sự tốt lành cơ bản của sự hiện hữu mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta và tin tưởng rằng Ngài sẽ dẫn dắt chúng ta đến một kết thúc tốt đẹp, thậm chí dù có phải vượt qua những hoàn cảnh và những thăng trầm làm chúng ta hoang mang. Tuy nhiên, nếu chúng ta che giấu những nỗi sợ, chúng ta sẽ trở nên hướng nội và đóng cửa để bảo vệ bản thân khỏi mọi thứ và mọi người, và chúng ta sẽ bị tê liệt. Chúng ta phải hành động! Không bao giờ tự chôn kín chính mình! Trong Kinh Thánh, cụm từ “Đừng sợ” được lặp đi lặp lại đến 365 lần với các biến thể khác nhau, như để nói với chúng ta rằng Chúa muốn chúng ta thoát khỏi sợ hãi, mỗi ngày trong năm.

Sự phân định là không thể thiếu được khi chúng ta tìm kiếm ơn gọi của mình trong cuộc đời. Thường khi ơn gọi của chúng ta không rõ ràng hoặc hiển nhiên ngay lúc đầu nhưng là một cái gì đó chúng ta dần dần mới hiểu được. Sự phân định trong trường hợp này không nên được xem như là một nỗ lực tự nhận thức cá nhân, nhằm mục đích hiểu rõ hơn về cấu trúc nội tâm của chúng ta để củng cố chúng ta và đạt được một sự cân bằng nào đó. Trong những trường hợp như vậy, người đó có thể trở nên mạnh hơn, nhưng vẫn còn bị hạn chế trong một chân trời giới hạn bởi những khả năng và viễn tượng của mình. Tuy nhiên ơn gọi là một lời mời gọi từ trên cao, và sự phân định trong bối cảnh này chủ yếu có nghĩa là tự mở lòng mình ra cho một Đấng khác đang mời gọi. Vì thế, cần phải thinh lặng cầu nguyện để nghe tiếng Chúa vang lên trong lương tâm của chúng ta. Thiên Chúa gõ cửa chúng ta, như Ngài đã làm với Đức Maria; Ngài mong muốn thiết lập tình bạn với chúng ta thông qua cầu nguyện, muốn nói với chúng ta qua Sách Thánh, muốn ban cho chúng ta lòng thương xót trong Bí Tích Hòa Giải, và muốn nên một với chúng ta trong Bí Tích Thánh Thể.

Điều quan trọng là phải đối thoại và gặp gỡ người khác, những anh chị em của chúng ta trong đức tin, những người có nhiều kinh nghiệm, vì họ giúp chúng ta nhìn thấy mọi sự tốt hơn và biết lựa chọn khôn ngoan từ những khả thể khác nhau. Khi chàng trai trẻ Samuên nghe tiếng Chúa, anh không nhận ra điều đó ngay. Ba lần anh chạy đến gặp ông Êli, vị tư tế lớn tuổi hơn, là người cuối cùng đã đưa ra một câu trả lời đúng đắn cho lời mời gọi của Chúa: “Nếu Người gọi con, con hãy thưa: 'Lạy Chúa, xin hãy phán bảo, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe'” (1 Sam. 3: 9). Trong những nghi nan của các bạn, hãy biết rằng các bạn có thể tin cậy vào Giáo Hội. Tôi biết có rất nhiều linh mục, những người nam nữ thánh thiện và các tín hữu giáo dân, nhiều người trong số họ còn trẻ, họ là những người có thể nâng đỡ các bạn như những anh chị em trong đức tin. Được Chúa Thánh Thần thúc đẩy, họ sẽ giúp bạn hiểu rõ những nghi nan của các bạn và hiểu được kế hoạch Chúa dành cho các bạn trong ơn gọi của mình. Tha nhân không chỉ là một hướng dẫn tinh thần, mà còn là người giúp chúng ta mở rộng chính mình cho sự giàu có vô hạn trong cuộc sống mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta. Điều quan trọng là tạo ra không gian trong các thành phố và cộng đồng để phát triển, mơ ước và hướng đến những chân trời mới! Đừng bao giờ mất đi sự nhiệt tình trong việc được hưởng sự tháp tùng và tình bạn, cũng như niềm vui khi được cùng nhau mơ ước, khi được đồng hành với nhau. Kitô hữu đích thực không sợ mở lòng mình ra với người khác và chia sẻ với họ những không gian quan trọng của mình, để biến những không gian ấy thành những không gian của tình huynh đệ. 

Các bạn trẻ thân mến, đừng để cho tính năng động của tuổi trẻ bị dập tắt trong bóng tối của một căn phòng khép kín trong đó cửa sổ duy nhất thông ra thế giới bên ngoài là máy tính và điện thoại thông minh. Hãy mở rộng cánh cửa của cuộc sống các bạn! Cầu xin cho thời gian và không gian của các bạn tràn ngập những mối quan hệ có ý nghĩa, những người thực, là những người các bạn chia sẻ kinh nghiệm thực và cụ thể của bạn về cuộc sống hàng ngày.

2. Đức Maria!

“Ta đã gọi ngươi bằng chính tên ngươi” (Is 43: 1). Lý do đầu tiên để đừng sợ là Thiên Chúa đã gọi chúng ta đích danh. Thiên Thần, là sứ giả của Thiên Chúa, đã gọi đích danh Mẹ Maria. Quyền được đặt tên thuộc về Thiên Chúa. Trong công trình sáng tạo, Người đặt tên cho mọi loài Người đã tác tạo. Có một căn tính đằng sau một cái tên, một cái gì là duy nhất trong mọi thứ, trong mỗi người; một yếu tính thân mật mà chỉ có Thiên Chúa mới thực sự thấu hiểu. Quyền thánh thiêng này đã được Chúa chia sẻ với con người khi Người mời gọi con người đặt tên cho thú vật, chim chóc và cả con cái của mình (Sáng thế ký 2: 19-21, 4: 1). Nhiều nền văn hoá chia sẻ tầm nhìn sâu sắc trong Kinh Thánh; họ nhận ra trong mỗi cái tên một sự mặc khải mầu nhiệm sâu sắc của cuộc sống và ý nghĩa của sự hiện hữu.

Khi Thiên Chúa kêu gọi ai đó bằng tên của người ấy, Người cũng mạc khải cho người ấy biết ơn gọi, kế hoạch thánh thiện và viên mãn mà Người thiết kế riêng cho người ấy để qua đó người ấy trở thành ân sủng cho người khác. Và khi Thiên Chúa muốn mở rộng chân trời của cuộc sống, Người đưa ra một cái tên mới cho người mà Ngài kêu gọi, như Ngài đã từng làm với Simon, người mà Ngài gọi là “Phêrô”. Từ đây có một phong tục lấy tên mới khi bước vào một tu hội, để cho thấy một căn tính và một sứ mệnh mới. Vì lời mời gọi của Thiên Chúa là duy nhất và cá vị, chúng ta cần can đảm để giải thoát chúng ta khỏi áp lực phải được định hình theo những khuôn mẫu phải theo, để cuộc sống của chúng ta thật sự có thể trở thành món quà đích thực và không thể thay thế được cho Thiên Chúa, cho Giáo Hội và cho tất cả mọi người.

Các bạn trẻ thân mến, được gọi đích danh là dấu chỉ của phẩm giá cao trọng trước mắt Thiên Chúa và là dấu chỉ của tình yêu Ngài dành cho chúng ta. Thiên Chúa kêu gọi đích danh mỗi người trong các bạn. Tất cả các bạn là “mình” trước mặt Thiên Chúa, quý giá trong đôi mắt của Người, đáng trân trọng và mến thương (xem Is 43: 4). Hãy chào đón với niềm vui cuộc đối thoại này mà Thiên Chúa ban cho các bạn, lời kêu gọi mà Người gửi đến cho các bạn, đích danh từng người.

3. Bà đẹp lòng Thiên Chúa

Lý do chính Đức Maria không phải sợ là vì Mẹ đẹp lòng Chúa. Từ “ân sủng” nói đến tình yêu trao ban cách nhưng không, chứ không phải thủ đắc được. Chúng ta được khích lệ biết ngần nào khi thấy rằng chúng ta không cần phải mưu cầu sự thân mật với Thiên Chúa và sự phù giúp của Người, bằng cách chìa ra một “Lý lịch Nghề nghiệp”, đầy những lời khen thưởng và thành công! Thiên Thần nói với Đức Maria rằng Mẹ đã đẹp lòng Thiên Chúa rồi, chứ không phải là Mẹ sẽ đạt được điều đó trong tương lai. Và những lời của thiên thần trong cùng một công thức như thế giúp chúng ta hiểu rằng ân sủng của Thiên Chúa là liên tục chứ không phải là một cái gì đó đi qua hay thoáng qua; vì lý do này, ân sủng Chúa sẽ không bao giờ cạn kiệt. Ngay cả trong tương lai, ân sủng của Thiên Chúa sẽ luôn ở đó để dưỡng nuôi chúng ta, đặc biệt trong những giây phút thử thách và tối tăm.

Sự hiện diện liên tục của ân sủng Chúa khuyến khích chúng ta đón nhận ơn gọi của chúng ta với sự tự tin; ơn gọi của chúng ta đòi hỏi một sự cam kết trung thành cần được làm mới lại mỗi ngày. Con đường ơn gọi của chúng ta không phải là không có những thập giá của nó: không chỉ là những nghi ngờ ban đầu của chúng ta thôi đâu, mà còn có cả những cám dỗ thường xảy ra trên đường đi. Cảm giác không thích hợp tháp tùng với các môn đệ Chúa Kitô cho đến cùng. Tuy nhiên, người đó biết mình được nâng đỡ bằng ân sủng của Thiên Chúa.

Những lời của Thiên Thần rơi xuống trên những những nỗi sợ của con người, giải thể chúng bằng quyền năng của Tin Mừng mà chúng ta là những người loan báo: cuộc sống của chúng ta không chỉ gồm toàn những may mắn cũng chẳng phải chỉ là một cuộc vật lộn để sống còn, trái lại mỗi người chúng ta là một câu chuyện vui vì được Thiên Chúa yêu mến. Chúng ta “tìm thấy ân sủng trong mắt Người” có nghĩa là Đấng Tạo Hoá nhìn thấy một vẻ đẹp độc đáo trong hiện trạng của chúng ta và Người có một kế hoạch tuyệt vời cho cuộc sống của chúng ta. Nhận thức về sự xác tín này, tất nhiên, không giải quyết được hết tất cả các vấn đề của chúng ta cũng như không làm tan biến đi sự bấp bênh của cuộc sống. Nhưng nó có sức mạnh để biến đổi cuộc sống của chúng ta một cách sâu sắc. Không biết ngày mai dành cho chúng ta những gì không phải là một mối đe dọa đen tối mà chúng ta cần phải vượt qua đâu, nhưng là thời thuận lợi để chúng ta sống tính độc đáo trong ơn gọi cá vị của chúng ta, và chia sẻ ơn gọi đó với anh chị em của chúng ta trong Giáo Hội và trên thế giới. 

4. Can đảm trong khoảnh khắc hiện tại

Sự xác tín rằng ân sủng của Thiên Chúa luôn ở cùng chúng ta làm nảy sinh sức mạnh để can đảm trong giây phút hiện tại: đó là lòng can đảm thực thi những gì Thiên Chúa yêu cầu chúng ta ở đây và ngay bây giờ, trong mọi khía cạnh của cuộc sống của chúng ta; can đảm để đón nhận ơn gọi mà Thiên Chúa tỏ lộ cho chúng ta; can đảm để sống đức tin của chúng ta mà không che giấu hoặc giản lược nó.

Vâng, khi chúng ta mở lòng mình ra với ân sủng của Thiên Chúa, điều không thể trở thành hiện thực. “Nếu Thiên Chúa đứng về phía chúng ta, ai có thể chống lại chúng ta đây?” (Rm 8:31). Ân sủng của Thiên Chúa chạm đến cái “bây giờ” trong cuộc sống của các bạn, “nắm lấy” các bạn trong tình trạng hiện nay của các bạn, với tất cả những nỗi sợ hãi và giới hạn của các bạn, nhưng ân sủng Người cũng cho thấy những kế hoạch diệu kỳ của Người! Hỡi các bạn trẻ, các bạn phải biết rằng có những người thực sự tin tưởng nơi các bạn: xin hãy biết rằng Đức Giáo Hoàng có lòng tin nơi các bạn, rằng Giáo Hội tin tưởng các bạn! Về phần mình, hãy tin tưởng vào Giáo Hội!

Đức Maria trẻ tuổi được ủy thác một nhiệm vụ quan trọng chính vì Mẹ còn trẻ. Các bạn trẻ sung sức vì đang trải qua một giai đoạn trong đời người trong đó không thiếu năng lượng. Hãy tận dụng sức mạnh và năng lượng này để cải thiện thế giới, bắt đầu với những thực tại gần gũi nhất với các bạn. Tôi muốn những trách nhiệm trọng đại được trao cho các bạn trong Giáo Hội; tôi muốn Giáo Hội có can đảm để tạo ra không gian cho các bạn; và các bạn được chuẩn bị để thực hiện những trọng trách này.

Tôi mời gọi các bạn một lần nữa hãy chiêm ngắm tình yêu của Đức Maria: một tình yêu chăm sóc, năng động và cụ thể. Một tình yêu đầy sự dũng cảm và tập trung hoàn toàn vào sự trao ban chính mình. Một Giáo Hội được thấm nhuần bởi những phẩm chất của Mẹ Maria sẽ luôn luôn là một Giáo Hội đi lên, vượt quá giới hạn và ranh giới của chính mình để trao ban những ân sủng nhận được dư dật. Nếu chúng ta để cho mình được thực sự xúc động trước tấm gương của Đức Maria, chúng ta sẽ sống thực sự lòng bác ái đang thúc đẩy chúng ta yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự và trên cả chính chúng ta, và yêu thương những người mà chúng ta chia sẻ cuộc sống hàng ngày. Và chúng ta cũng sẽ yêu những người có vẻ như thật khó yêu. Đó là một tình yêu là phục vụ và dâng hiến, trước hết dành cho những yếu đuối và nghèo nhất, một tình yêu biến đổi khuôn mặt của chúng ta và làm tràn ngập trong ta niềm vui.

Tôi muốn kết thúc bằng những lời đẹp đẽ Thánh Bernard đã dùng trong một bài giảng nổi tiếng về mầu nhiệm Truyền Tin, những lời diễn tả sự mong đợi của toàn thể nhân loại đối với lời đáp trả của Đức Maria: “Lạy Đức Nữ Đồng Trinh, Mẹ đã nghe rằng Mẹ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai; Mẹ đã nghe rằng đó sẽ không phải do con người mà bởi Chúa Thánh Thần. Thiên thần đang chờ đợi câu trả lời... Lạy Đức Mẹ, chúng con cũng đang chờ đợi lời từ bi của Mẹ... Trong phản ứng ngắn gọn của Mẹ, chúng con sẽ được tái tạo để được mời gọi đến sự sống... Đây là điều mà cả thế giới chờ đợi, phủ phục dưới chân Mẹ... Lạy Đức Nữ Đồng Trinh, xin mau trả lời” (Bài giảng số 4, 8-9; Opera Omnia).

Các bạn trẻ thân mến, 

Chúa, Hội Thánh, và thế giới đang chờ đợi câu trả lời của bạn cho ơn gọi độc đáo mà mỗi người nhận được trong cuộc sống này! Khi Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới ở Panama đến gần hơn, tôi mời các bạn chuẩn bị cho cuộc tụ họp của chúng ta với niềm vui và sự nhiệt tình của những ai muốn tham gia vào cuộc phiêu lưu tuyệt vời như vậy. Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới là dành cho những người can đảm! Không dành cho những người trẻ chỉ kiếm tìm sự thoải mái và những ai trốn chạy bất cứ khi nào những khó khăn nổi lên. Các bạn có chấp nhận thử thách không?

Từ Vatican, ngày 11 tháng 2 năm 2018
Chúa Nhật Thứ Sáu Mùa Quanh Năm
Lễ Kính Đức Mẹ Lộ Đức


J.B. Đặng Minh An dịch



Bàn về tuyên bố của ĐHY Sarah về việc rước lễ bằng tay

Đức hồng y Robert Sarah, người đứng đầu về phụng vụ của Vatican và đã từng bị Đức Thánh Cha Phanxico khiển trách vì quan điểm phụng vụ, đang thu hút sự chú ý sau khi trình bày quan điểm của mình về việc Rước Lễ bằng tay, vốn đã được thực hành một cách rộng rãi.
Trong phần giới thiệu của cuốn sách mới về việc thực hành Rước Lễ, Đức hồng y viết, “chúng ta có thể hiểu cuộc tấn công nguy hiểm nhất của Satan bao gồm những cố gắng dập tắt niềm tin vào Bí Tích Thánh Thể, gieo rắc những sai lầm và ủng hộ việc đón nhận Thánh Thể không xứng đáng”, theo bản dịch xuất bản bởi PraytellBlog. “Đó thật là cuộc chiến giữa một bên là Tổng Lãnh Thiên Thần Micae và các thiên thần của ngài, và bên kia là Luxiphe, vẫn đang tiếp tục diễn ra trong lòng các tín hữu: mục tiêu tấn công của Satan là Thánh Lễ Hy Tế và Sự Hiện Diện thực sự của Chúa Giêsu trong hình bánh đã được truyền phép.”
ĐHY Sarah chất vấn tại sao người Công Giáo lại đứng – chứ không phải quỳ – và Rước Lễ trên tay như thế? Và “Tại sao lại có thái độ thiếu vâng phục những dấu chỉ của Thiên Chúa như vậy?”
Vatican cho phép các tín hữu rước lễ bằng tay ở nhiều quốc gia trên thế giới và thực hành này trở nên gần như phổ biến tại rất nhiều nước, bao gồm cả Mỹ (và Việt Nam – chú thích của người dịch).
Timothy Johnston, một nguyên giám đốc phụng vụ giáo phận, và hiện tại viết Các Ấn Phẩm Huấn Luyện Phụng Vụ có trụ sở ở Chicago, nói với Tạp chí America rằng, “đánh đồng giữa việc đứng nhận Mình Thánh bằng tay với Satan là một việc làm vô trách nhiệm và tiếp tục tạo ra sự phân cực trong cộng đoàn Ki-tô hữu.”
“Dù mỗi người chọn cách thức Rước Lễ, nhưng điều này cần được làm với một sự kính trọng. Dù cử chỉ của chúng ta như thế nào, thì lòng kính trọng như thế là điều tất cả chúng ta phải nỗ lực tìm kiếm đầy đủ hơn.” Timothy Johnston thêm rằng, những lời của hồng y “phủ nhận một thực hành hợp lý được kế thừa từ thời Giáo Hội sơ khai.”
Cha John F. Baldovin, S.J., một giáo sư thần học lịch sử và phụng vụ tại phân khoa thần học và mục vụ thuộc đại học Boston nói với Tạp chí America rằng, những lưu ý của hồng y Sarah “đã dẫn đến một sự bất đồng nền tảng với một nền thần học và lòng tôn kính dành cho Thánh Thể vốn hiểu rằng, hành động Rước Lễ là một hành động của Đấng Cứu Độ yêu thương, Đấng mong muốn làm cho chúng ta thành chi thể của Người – bằng cả việc lãnh nhận bí tích lẫn việc ngày càng trở nên thành phần của nhiệm thể Người là Giáo Hội.”
Cha Baldovin nói: “Người Công Giáo hoàn toàn tự do rước lễ bằng miệng. Trong một thế giới bị xé nát bởi quá nhiều chia rẽ, thật chẳng gì ích lợi khi hồng y Sarah lại làm cho sự chia rẽ đó đi xa hơn.”
Theo trang web chính thức của Vatican, “hầu như chắc chắn rằng, việc thực hành cổ xưa nhất trong việc trao Mình Thánh cho các tín hữu là trao Mình Thánh vào lòng bàn tay các tín hữu.”
Nhiều nhà chú giải đã bàn về những lời của thánh Cirilô thành Giêrusalem, được viết vào đầu thế kỷ thứ 5, nói rằng khi rước lễ, các tín hữu nên “đặt tay trái trên tay phải, như thể đang đón nhận một vị Vua”.
Trải qua nhiều thế kỷ, việc thực hành phụng vụ quen với việc trao Mình Thánh trên lưỡi cho các tín hữu. Từ sau Công Đồng Vatican II, việc nhận Mình Thánh bằng tay trở nên quy luật bình thường ở nhiều nơi.
Đức hồng y Sarah, người được Đức Thánh Cha Phanxicô bổ nhiệm làm Tổng trưởng bộ Phụng Tự Thánh năm 2014, ủng hộ việc thờ phượng quay mặt về hướng đông (ad orientem), và thực hành việc các linh mục quay mặt cùng một hướng với cộng đoàn trong các phần của Thánh Lễ, nghĩa là linh mục quay lưng lại với những người tham dự. Năm ngoái, vị hồng y này dường như đã bất đồng với một hướng dẫn do Đức Thánh Cha Phanxico ban hành, cho phép các Giám mục địa phương có quyền trên các bản dịch liên quan đến Thánh Lễ. Trong cả hai trường hợp, Vatican đã có một bước ngoại thường khi đã công khai quở trách vị hồng y 72 tuổi này.
Vị hồng y sinh tại Guinia này đã dành được sự ủng hộ của một số nhóm vì lập luận của ngài ủng hộ linh đạo chiêm niệm và tuyệt đối bảo vệ các giá trị luân lý truyền thống.
Nguồn: https://www.americamagazine.org/faith/2018/02/23/cardinal-sarah-receiving-communion-hand-part-diabolical-attack-faith
Chuyển ngữ: Minh Triệu, S.J.

Hội đồng Hồng y tư vấn nhóm họp Khoá thứ 23




WHĐ (27.02.2018) – Theo ấn định của Khoá họp trước, hôm thứ Hai 26-02-2018, Hội đồng Hồng y tư vấn đã khai mạc Khoá họp thứ 23 tại Vatican và sẽ kết thúc vào thứ Tư 28-02.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã tham dự Khoá họp đầu tiên này trong năm 2018 của Hội đồng Hồng y tư vấn để tiếp tục xem xét cuộc cải tổ Giáo triều Rôma, đặc biệt tập chú vào các khu cơ quan chính của Giáo triều.

Trong một cuộc trả lời phỏng vấn mới đây dành cho Vatican News, Đức Giám mục Marcello Semeraro, thư ký Hội đồng Hồng y tư vấn, đã cho biết Khoá họp này sẽ tiếp tục “giai đoạn cuối cùng” trong việc xem xét những cơ quan chính của Giáo triều.

“Thay đổi não trạng”

Trong cuộc phỏng vấn, Đức cha Albano nói thêm rằng “thực sự sẽ có cải tổ về mặt tổ chức, thay đổi về cấu trúc, nhưng sự thay đổi trước hết cần phải làm – và làm thường xuyên – là thay đổi não trạng”.

Đức cha Semeraro nói rằng những cải tổ này nhằm mục đích diễn tả “sự hài hoà với những gì Đức Thánh Cha Phanxicô đã viết trong Tông huấn Evangelii Gaudium”, sau đó là “đặt mình vào khuôn mẫu của hoạt động truyền giáo, loan báo Phúc Âm, dưới ánh sáng của điều mà tất cả những tổ chức và thể chế khác đang phải đối mặt”.

Hội đồng Hồng y tư vấn được thành lập ngày 13-04-2013 để giúp Đức giáo hoàng Phanxicô “trong việc quản trị Giáo hội hoàn vũ và duyệt lại Tông hiến Pastor Bonus về tổ chức Giáo triều Rôma”. Khoá họp đầu tiên của Hội đồng nhóm họp vào tháng Mười 2013. Khoá họp thứ 22 đã diễn ra từ ngày 11 đến ngày 13-12-2017.

(Theo Vatican News) 

Minh Đức
Nguồn: http://www.hdgmvietnam.org/hoi-dong-hong-y-tu-van-nhom-hop-khoa-thu-23/9483.57.7.aspx

Tĩnh tâm giáo triều, bài 7: Nhận ra cơn khát của mình và để Chúa can thiệp


Trong bài suy niệm thứ bảy của tuần tĩnh tâm vào chiều thứ tư, 21/02, , cha giảng thuyết José Tolentino Mendonça nhắc cho mọi người rằng chính sự nghèo khổ của chúng ta là nơi mà Chúa Giêsu đi vào cuộc đời chúng ta và cản trở lớn nhất đối với sự sống của Chúa Kitô ở trong chúng ta không phải là sự mỏng dòn của chúng ta nhưng là sự cứng nhắc và tự cảm thấy đủ của chúng ta. Do đó cần học uống chính cơn khát của mình. Trong bài suy niệm, cha José tiếp tục suy tư về cơn khát bằng cách liên kết nó với cuộc Thương khó của Chúa Giêsu.

Con đường dạy chúng ta nhiều hơn quán trọ

Giáo hội không được cô lập mình trong một tháp ngà, bằng cách trở thành người giám hộ của ơn thánh, nhưng Giáo hội cũng là một môn đệ, và một cách nào đó, sống kinh nghiệm của dân du mục. Qua đó, ngay cả những người không tin cũng có thể quan sát đời sống đức tin của chúng ta với một sự tươi vui ngạc nhiên. Cũng có thứ nguy hiểm là muốn người khác phải bước đi, thậm chí là đòi hỏi khẩn cấp, trong khi chúng ta vẫn ngồi lì. Chúng ta phải cẩn thận để đời sống thiêng liêng của chúng ta không bị chứng ù lì, ít vận động không bị chứng teo cơ nội tâm.

Nhìn thấy trong cơn khát là một cách thức hành trình

Đời sống tâm linh của chúng ta phải giống như một cuộc phiêu lưu cộng đồng, mà Gustavo Gutiérrez đã nhấn mạnh trong cuốn sách “Uống từ giếng của mình. Hành trình thiêng liêng của một dân tộc.” Giếng nước mà ta lấy nước để uống là đời sống thiêng liêng cụ thể, bị thương tổn bởi sự bất định và hạn hẹp:

Nhân loại mà chúng ta nỗ lực để ôm lấy, của chính chúng ta và của người khác, là nhân loại mà Chúa Giêsu thực sự ôm lấy, bởi vì Người cúi xuống, với tình yêu, trên thực tại của chúng ta, chứ không phải trên sự lý tưởng hoá của bản thân chúng ta mà chúng ta đang xây dựng. Nói tóm lại, mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa mang lại cho chúng ta một cái nhìn thực về cuộc sống.

Bỏ đi “tật” đòi một cuộc sống hoàn hảo

Khát khao, trong một nghĩa nào đó, nhân văn hóa chúng ta và tạo thành một con đường “trưởng thành thiêng liêng.” Cha José nhắc rằng phải mất rất nhiều thời gian để làm mất đi thói cầu toàn, đòi những điều hoàn hảo, để chiến thắng được thói quen che đậy thực tế bằng những hình ảnh giả dối. Như Thomas Merton viết, Chúa Kitô muốn đồng hóa mình với những điều mà chúng ta không yêu thích nơi mình, bởi vì Người đã nhận lấy nỗi khốn khổ và đau khổ của chúng ta trên chính mình. Chính Thánh Phaolô đã làm chứng rằng đức tin giống như một giả thuyết nghịch lý: “Khi tôi yếu đuối, chính là lúc tôi mạnh mẽ.”

Trở ngại lớn nhất đối với cuộc sống của Thiên Chúa trong con người chúng ta không phải là sự mỏng dòn hoặc yếu đuối, mà là sự cứng nhắc và cứng cỏi. Đó không phải là sự dễ bị tổn thương và nhục nhã, nhưng ngược lại, là sự kiêu ngạo, tự thấy đủ, tự cho mình là công chính, cô lập, bạo lực, mê muội quyền lực. Sức mạnh chúng ta thực sự cần, ân sủng mà chúng ta cần, không phải của chúng ta, mà là của Chúa Giêsu Kitô.

Ba cám dỗ trong sa mạc

Nói về ba cơn cám dỗ của Chúa Giêsu trong sa mạc, cha Josè khẳng định: “Nếu chúng ta chuẩn bị để lắng nghe, khao khát có thể là một bậc thầy quý báu của đời sống nội tâm.” Cám dỗ đầu tiên là bánh. Chúa Giêsu biết nhu cầu vật chất của con người, nhưng Người nhắc rằng con người không chỉ sống bằng cơm bánh. Câu trả lời của Ngài không phải là làm cho chúng ta trốn thoát khỏi thực tại, nhưng làm cho chúng ta xem nó như một nơi phải được mặc lấy Chúa Thánh Thần.

Để hiểu được cám dỗ thứ hai, cha Josè nhắc lại khi dân Israel ở trong sa mạc, đòi ông Môsê phải cho họ nước uống: để tin, chúng ta muốn thấy khát vọng của chúng ta được thỏa mãn, nhưng Chúa Giêsu “dạy chúng ta dâng sự im lặng, từ bỏ và khao khát như một lời cầu nguyện.” Cuối cùng, cám dỗ cuối cùng về các thần tượng, Chúa Giêsu đã trả lời: “Ngươi sẽ thờ lạy Chúa là Thiên Chúa của ngươi: chỉ thờ phượng một mình Người.” Trong đoạn Tin Mừng thánh Mátthêu, khi Chúa Giêsu phục sinh nhắc rằng mọi quyền phép trên trời và dưới đất đã được ban cho Người.
“Quyền năng của Chúa Giêsu chính là sự dâng hiến chính mình đến cùng

Ma quỷ muốn được tôn thờ, nhưng sức mạnh của nó là vẻ bên ngoài, trong khi đó quyền năng của Đấng Phục Sinh là một phần của mầu nhiệm thập giá, của sự dâng hiến chính mình. Đây là một nguy cơ rất lớn, khi sự cám dỗ của quyền lực, trên quy mô lớn hay nhỏ, đưa chúng ta đi xa khỏi mầu nhiệm của Thánh Giá, khi nó đưa chúng ta ra khỏi sự phục vụ anh em chúng ta. Chúa Giêsu dạy rằng không để mình trở thành nô lệ bởi bất cứ ai và không bắt ai làm nô lệ, nhưng chỉ thờ phượng Thiên Chúa và phục vụ: “Chúng ta không phải là những ông chủ, nhưng là các mục tử.” (Vatican News 21/02/2018)

Hồng Thủy

Rước Lễ Bằng Miệng Hay Bằng Tay?


Nhân đọc bản tin trên Vietcatholic về chuyện Đức Hồng Y Sarah, Bộ Trưởng Bộ Phụng Tự và Kỷ Luật các Bí Tích,về việc "rước Lễ bằng tay".


Nhân ngày Lễ Mình Máu Chúa Kitô, xin được có đôi thiển ý về cách thức rước Lễ hay theo cách nói trước đây là “chịu Lễ”.

Một hiện tượng cần ghi nhận: Tại Việt Nam, hình thức rước Lễ bằng tay như đã phổ biến cách “đại trà”, kể cả với các em thiếu nhi. Trong khi đó Giáo Hội cho phép rước Lễ theo hình thức này với một vài điều kiện và xem đây là một phép “ngoại thường”. Huấn Thị Redemptionis Sacramentum số 92 ghi: “Mọi tín hữu, theo họ chọn, luôn luôn có quyền rước lễ bằng miệng. Nếu người rước lễ muốn nhận Thánh Thể bằng tay, trong những miền mà Hội Đồng Giám Mục cho phép, với sự xác nhận của Tông Toà, có thể ban Mình Thánh cho họ. Nhưng, trong trường hợp này, phải chăm chú theo dõi Mình Thánh Chúa được người rước lễ rước bánh thánh ngay trước mặt thừa tác viên, tránh không để một ai cầm Mình Thánh trong tay mà đi ra khỏi đó. Nếu có nguy cơ xúc phạm, không được cho các tín hữu rước lễ bằng tay”. Theo văn mạch của Huấn Thị thì rước Lễ bằng miệng là một quyền lợi, còn rước Lễ bằng tay là một ân xin với một vài điều kiện đi kèm. Chuyên gia về Phụng Vụ của Hội Thánh khẳng định đây là đặc ân ngoại thường.

Hội Đồng Giám Mục Việt Nam sau khi xin Tòa Thánh cho phép tín hữu được rước Lễ bằng tay đã ra thông báo rằng: Tín hữu được quyền chọn lựa hình thức rước lễ bằng miệng theo truyền thống hoặc rước Lễ bằng tay, nhưng vẫn khuyến khích rước Lễ theo hình thức cũ.

Để áp dụng thêm một hình thức rước Lễ mới là bằng tay thì vào năm 1994 Hội đồng Giám Mục Việt Nam đã chỉ thị cho các chủng viện, các tu viện áp dụng thử trước một thời gian. Và đến đầu năm 1996 mới phổ biến cho tín hữu. Khi phổ biến thì yêu cầu các linh mục tập cho tín hữu cách thức rước Lễ bằng tay. Các linh mục cứ thế tập cho đoàn tín hữu từ già đến trẻ đều rước Lễ bằng tay một thời gian. Và thế là hình thức rước Lễ mới được xem như là “thời thượng”, là “tiến bộ”, là “trí thức”, là “trưởng thành” vì có các chủng sinh, các nam nữ tu sĩ đi tiên phong. Và tại Việt Nam nếu có giáo xứ nào căn cứ lời dạy của Giáo Hội, của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam cổ võ việc rước Lễ theo hình thức cũ thì bị xem như là cổ lỗ sĩ, là bảo thủ, là đi ngược thời đại…

Sau một thời gian, cũng có nhiều vị phản ánh về sự lạm dụng trong hình thức rước Lễ mới, và cách riêng có thể làm suy giảm lòng tôn kính nơi các em thiếu nhi, và một số người, thì tôi đã từng nghe nhiều linh mục Việt Nam cổ võ cho cách thế “chịu Lễ” bằng tay với những lý luận như sau:

1. Không biết tay hay lưỡi, bộ phận nào “sạch” hơn. Theo các ngài thì “tay” có lẽ sạch hơn “lưỡi” nhiều.

2. Hình thức rước Lễ bằng tay thì “vệ sinh” hơn hình thức rước Lễ bằng miệng.

3. Rước Lễ bằng tay mà trang nghiêm cung kính thì vẫn hơn rước Lễ bằng miệng mà thiếu ý thức.

4. Chúa Kitô truyền là hãy cầm lấy mà ăn; Hãy cầm lấy mà uống… thì chúng ta làm theo lời Chúa truyền mà thôi.

5. Giáo Hội đã cho phép thì chúng ta cứ tự nhiên thi hành. Đừng có bảo hoàng hơn cả vua, đừng có khó hơn cả Tòa Thánh Rôma.

Xin có một vài nhận định, kiểu bắt giò lái và tuần tự theo các luận lý ở trên.

1. Không biết tay hay lưỡi, bộ phận nào “sạch” hơn. Theo các ngài thì tay có lẽ sạch hơn lưỡi nhiều.

* Người ta dễ đánh lừa kẻ khác về đối tượng so sánh. Thoặt nghĩ thì ta dễ cho rằng cái lưỡi chưa chắc đã sạch bằng bàn tay, vì theo khoa học, trong vòm miệng chúng ta chứa rất nhiều vi khuẩn. Hơn nữa, xét về khía cạnh luân lý thì người ta cũng dễ dè chừng cái bộ phận “lắm đường lắt léo” này. Tuy nhiên nếu nghĩ lại một chút thì chúng ta nhận ra ngay rằng những người chọn rước lễ bằng tay cũng không thể bỏ qua cái lưỡi của họ. Không lẽ Mình Thánh Chúa từ bàn tay họ đi thẳng vào bụng họ? Chắc chắn từ bàn tay phải qua cái lưỡi. Như thế, xét về quảng đường đi của Thánh Thể, thì cách thế rước Lễ bằng tay lại qua nhiều trung gian hơn cách thế rước Lễ bằng miệng.

2. Hình thức rước Lễ bằng tay thì “vệ sinh” hơn hình thức rước Lễ bằng miệng.

* Có lẽ đây là một trong những lý do chính yếu mà Hội Đồng Giám Mục một số quốc gia, trong đó có Hội Đồng Giám Mục Việt Nam xin Tòa Thánh cho tín hữu được rước Lễ theo cách mới (bằng tay). 

Với tâm thức hiện nay, người ta vốn dễ dị ứng với những hình thức xem ra “thiếu vệ sinh”, mà việc rước Lễ bằng miệng là một điển hình. Vấn đề đặt ra là giữ vệ sinh cho mình hay cho tha nhân.

Theo tôi, nếu nhắm đến việc giữ vệ sinh cho mình, thì cách thức rước Lễ bằng tay không đạt mục đích mà trái lại còn thua cách thức rước Lễ bằng miệng. Lý do là vì theo kỷ luật Phụng vụ, đoàn tín hữu tham dự Thánh Lễ không được tự mình cầm lấy Thánh Thể để rước mà phải nhận từ tay thừa tác viên. Như thế nếu có vi khuẩn từ tay thừa tác viên thì người rước Lễ bằng tay xem ra “mất vệ sinh” hơn người rước Lễ bằng miệng, vì Thánh Thể phải từ tay thừa tác viên qua tay họ rồi mới vào miệng của họ.

Nếu nhằm giữ vệ sinh cho tha nhân, thì cách thức rước Lễ bằng tay xem ra có lý do chính đáng. Họ không muốn có sự lây lan vi khuẩn từ miệng của họ đến tha nhân, nếu giả như tay của thừa tác viên vô tình chạm vào lưỡi của họ. Theo thiển ý của tôi, nếu căn cứ vào lý do này thì cũng chính đáng, nhưng trong thực tế lại có đó hiện tượng phản cảm. Bởi chưng ở các nước tiên phong xin được rước Lễ bằng tay như Mỹ, Canada, Pháp thì người ta sợ lây nhiểm vi khuẩn cho tha nhân mà tránh không rước Lễ bằng miệng, sợ có sự cố tay thừa tác viên chạm vào lưỡi của mình, thế mà ngay sau đó, khi tan Lễ người ta không ngại ngần ôm hôn chùn chụt (une bise, deux ou trois bises). Xin đừng quên dù chỉ áp má mà thôi thì nhiều virus như virus cúm cũng rất dễ dàng lây nhiễm. Ngoài ra, khi chúng ta rước Thánh Thể Chúa, thì một điều kiện ắt phải có là niềm tin. Nếu quá chú trọng đến khía cạnh vệ sinh thì những bệnh nhân mắc bệnh truyền nhiễm ắt là cô đơn lắm lắm.

3. Quan trọng là tấm lòng. Rước Lễ bằng tay mà trang nghiêm cung kính thì vẫn hơn rước Lễ bằng miệng mà thiếu ý thức.

* Lối lập luận này thoặt xem ra rất hữu lý, nhưng xét kỹ thì nó hàm hồ kiểu đánh lận con đen. Người ta đánh lận con đen nơi đối tượng so sánh. Nghe lý luận thì chúng ta dễ đồng ý với chuyện người này rước Lễ bằng tay mà nghiêm trang kính cẩn thì vẫn hơn người kia rước Lễ bằng miệng mà thiếu ý thức hay sự trang nghiêm. So sánh người này với người kia thì không chuẩn, mà phải so sánh hai cách thế rước Lễ của cùng một người mới chuẩn. Nếu một người nào đó rước Lễ bằng tay mà nghiêm trang thì người ấy khi rước Lễ bằng miệng cũng sẽ nghiêm trang cung kính không kém và nhiều khi còn hơn nữa. Trái lại một người đã rước Lễ bằng miệng mà thiếu cung kính nghiêm trang, thì chắc chắn người ấy khi rước Lễ bằng tay sẽ thiếu nghiêm trang cung kính hơn nhiều.

4. Chúa Kitô truyền là hãy cầm lấy mà ăn; Hãy cầm lấy mà uống… thì chúng ta làm theo lời Chúa truyền mà thôi.

* Có ý kiến cho rằng lối dịch Việt ngữ chưa chuẩn về lời truyền phép như sau: “Accipite et manducate ex hoc omnes, hoc est enim corpus meum”. Accipite (ở thể imperatif của động từ accipere) phải dịch là “các con hãy nhận lấy”. Bản dịch Nghi Thức Thánh Lễ của Ủy Ban Phụng Vụ Các Giờ Kinh năm 1992 quả thật có dịch là “Hãy cầm lấy…”. Nhưng bản dịch mới của UB Phụng Tự HĐGMVN năm 2005 đã dịch là: “Hãy nhận lấy…”

Khi Giáo Hội truyền dạy trong Thánh Lễ, các tín hữu tham dự không được tự tiện cầm lấy Mình Thánh (Huấn Thị Redemptionis Sacramentum số 94), chắc hẳn muốn nhấn mạnh đến chiều kích lãnh nhận. Quả thật, không một ai tự mình có khả năng “chiếm hữu” Thiên Chúa. Chúa Kitô yêu thương tự trao hiến Thân Mình Người và phần chúng ta chỉ đón nhận. 

Ngoài ra có những chi tiết mà chúng ta không thể căn cứ Kinh Thánh theo sát mặt chữ để thực hành như một vài vị đã từng “Bẻ bánh” ngay khi đọc lời truyền phép.

5. Giáo Hội đã cho phép thì chúng ta cứ tự nhiên thi hành. Đừng có bảo hoàng hơn cả vua, đừng có khó hơn cả Tòa Thánh Rôma.

* Như đã nói ở trên, dù rằng Giáo Hội đã cho phép, nhưng phép ấy là phép thuộc hàng ngoại thường, có thể xem như là phép chuẩn, vì thế không thể thực hành cách tràn lan. Trong huấn thị Redemptionis Sacramentum số 92, Giáo Hội đã minh nhiên nói rõ việc rước Lễ bằng miệng là một quyền lợi của tín hữu và thừa tác viên không được từ chối, trái lại hình thức rước Lễ bằng tay có thể bị từ chối nếu thấy có nguy cơ xúc phạm. Xin lưu ý hai từ “nguy cơ”, vốn mang ý nghĩa phòng xa, ngăn ngừa.

Không thể minh nhiên đặt hai cách thế rước Lễ ngang hàng với nhau, kiểu cách nào cũng được, miễn là có ý thức và sự trang nghiêm cung kính. Chắc chắn có một vài khác biệt theo truyền thống phong tục tập quán của từng miền trong cung cách ứng xử, trong kiểu cách biểu lộ các tâm tình. Tuy nhiên, có những kiểu cách ứng xử hay tư thế biểu lộ mà người ta dù khác văn hóa cũng có thể đồng thuận về mức độ hơn kém về tâm tình. Chẳng hạn tư thế đứng thì ai cũng đồng ý là biểu lộ sự tôn kính hơn là tư thế ngồi. Chính vì thế khi nghe công bố Tin Mừng thì Giáo Hội dạy tín hữu là phải đứng. Lý do là vì để tỏ lòng tôn kính chính những Lời của Chúa Kitô hay là những Lời trực tiếp nói về Chúa Kitô. Và chúng ta không thể biện luận rằng đứng hay ngồi cũng được, miễn là có lòng tôn kính. Dĩ nhiên có những trường hợp ngoại thường có thể ngồi nghe Tin Mừng, chẳng hạn như những người bệnh tật, những người già yếu…

Đã nói là trường hợp ngoại thường thì không thể phổ biến tràn lan như nhiều nước đã xin phép và được phép cho tín hữu tham dự Thánh Lễ, được rước Lễ bằng tay như hiện nay, trong đó có Việt Nam chúng ta.

Một vài thiển ý kính gửi các Đấng bậc có trách nhiệm trong Giáo Hội, cách riêng Giáo Hội Việt Nam:

- Cần giải thích lại cho đúng vị trí của đặc ân được rước Lễ bằng tay. Hình thức rước Lễ này không phải là một quyền lợi mà là một đặc ân ngoại thường đi kèm một vài điều kiện, chẳng hạn như phải được Hội Đồng Giám Mục trực tiếp xin, người rước Lễ phải rước Chúa tại chỗ…

- Xin phổ biến lại văn thư trước đây của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam về vấn đề cho phép được rước Lễ bằng tay, vì có thể rất nhiều linh mục hiện nay không có.

- Hiện tượng rước Lễ bằng tay nay như đã phổ biến tràn lan có một nguyên do chính là vì các giáo xứ theo lệnh trên đã tập cho tất cả đoàn tín hữu thực hiện một thời gian. Chuyện gì mà cần phải tập một thời gian dài thì dễ được xem như là tiến bộ, là tốt đẹp hơn cái cũ. Vậy xin Hội Đồng Giám Mục ra lệnh cho các linh mục các giáo xứ cho toàn thể tín hữu tập lại hình thức rước Lễ bằng miệng trong vòng một thời gian dài tương tự, rồi sau đó trình bày, giải thích cách đúng đắn Huấn Thị Redemptionis Sacramentum và để cho tín hữu tự ý chọn lựa cách thức rước Lễ.

- Tín hữu Công Giáo nói chung và tín hữu Công Giáo Việt Nam nói riêng vốn trân trọng bậc tu trì. Hễ quý thầy, quý sơ hành xử như thế nào thì họ sẽ cho cách thế ấy là tốt đẹp. Từ cái lệnh truyền cho các chủng viện và tu viện áp dụng thử cách thức rước Lễ bằng tay, nên cách thức ấy đã thành chuyện bình thường trong các chủng viện và tu viện. Nếu các chủng sinh, các tu sĩ nam nữ rước Lễ bằng miệng như truyền thống thì có lẽ rất nhiều tín hữu giáo dân sẽ noi gương các vị ấy.

- Theo thiển ý là với các em thiếu nhi, xét chung thì chưa ý thức đủ, do đó nên hạn chế hoặc chưa cho các em sử dụng ân ban rước Lễ bằng tay.

Một vài nhận định và đề nghị liên quan đến việc rước Lễ trên đây hẳn còn nhiều thiếu sót và bất cập, nhưng chỉ với ước mong Kitô hữu chúng ta sống lời chỉ dạy của Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II là chúng ta cần phải tôn thờ Chúa Kitô trong bí tích Thánh Thể cho cân xứng và phải đạo, vì Đấng hiện diện trong Thánh Thể không chỉ là người Anh, người Bạn của chúng ta mà còn là Vị Thầy Chí Thánh, là Thiên Chúa Tối Cao. 

Lễ Mình Máu Chúa Kitô năm 2010

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa – Ban Mê Thuột

Ghi chú: 93. “ Phải duy trì việc dùng dĩa hứng khi cho các tín hữu rước lễ, để tránh Bánh Fhánh, hay một mảnh Bánh Thánh, rơi xuống đất”. Hạn từ “phải” ở số 93 của Huấn Thị dường như đã bị xem thường ở nhiều nhà thờ !

Nguồn: http://vietcatholic.net/News/Html/242558.htm

Đường dẫn để đọc bản tin trên Vietcatholic về chuyện Đức Hồng Y Sarah, Bộ Trưởng Bộ Phụng Tự và Kỷ Luật các Bí Tích,về việc "rước Lễ bằng tay":
http://vietcatholic.net/News/Html/242551.htm

Thứ Ba, 27 tháng 2, 2018

Suy tư Năm Mục vụ Gia đình 2018: Đồng hành với các gia đình trẻ - Bài 4: Một hôn nhân hạnh phúc


Suy tư Năm Mục vụ Gia đình 2018: 
Đồng hành với các gia đình trẻ

Bài 4: MỘT HÔN NHÂN HẠNH PHÚC
Vợ chồng sau nhiều năm vẫn còn còn sống với nhau, nhưng họ có hạnh phúc không là một chuyện khác. Hôn nhân hạnh phúc là điều hết sức quan trọng, vì đó là lý do chuẩn mực để đôi bạn tiếp tục ở lại trong hôn nhân. Nhưng làm sao ta biết một đôi vợ chồng thực sự hạnh phúc trong hôn nhân? Người ta hiểu thế nào là hạnh phúc trong hôn nhân, hạnh phúc gia đình? Phải lấy thước nào để đo hạnh phúc gia đình?
Dù chúng ta không có một con số thống kê chính thức chính xác về các gia đình hạnh phúc, nhưng ta nhận thấy vẫn có nhiều cặp rất hạnh phúc trong hôn nhân của họ. Chúng ta ít nghe nói đến các cặp hôn nhân hạnh phúc vì người ta thường chú ý đến các chuyện hôn nhân đổ vỡ hơn. Chuyện các nhân vật của công chúng như nghệ sĩ, chính trị gia … ly hôn, chia tay với bạn đời, bạn tình, thường gây chú ý dư luận. Nhưng trước hết điều quan trọng và hữu ích là biết thế nào là một hôn nhân hạnh phúc.

Hạnh phúc có hay không?

Hạnh phúc là cái gì đó tốt đẹp đáng ước ao mà ta đang có trong tầm tay, lúc này tại đây, ta quyết giữ không để nó vuột mất. “Đừng từ chối không hưởng một ngày vui, hoài bão của con, đừng để cho phần nào trôi đi mất” (Hc 14,14). Hạnh phúc là một cảm nghiệm gắn liền với việc ta đang sở hữu một điều tốt lành đáng ước ao và quyết nắm giữ. Có thể sánh nó với một kho báu chôn trong đất ruộng, một người tìm thấy và chôn nó trở lại, người ấy vui mừng đi bán hết tất cả những gì anh có và mua thửa ruộng ấy (Mt 13,44).
Đôi bạn lộ rõ rất hạnh phúc ngày cưới. Người này cũng như người kia vốn yêu thương hết mực con người đáng quý yêu kia và ước ao được có nhau, thuộc về nhau. Tình thương yêu xác nhận giá trị cao vời của người yêu, một thiện hảo nơi nhân vị đáng khao khát. Trong khi yêu thương người này nhận biết cảm xúc, tình cảm của mình đối với người kia. Chàng biết nàng là con người đặc biệt nhất mình khát mong. Chàng có thể dấn thân yêu thương đến cùng và thực hiện điều đó bất luận ra sao vì người mình yêu, người mình xem là quan trọng nhất đời. Người yêu chính là chìa khóa dẫn vào hạnh phúc cũng như chàng có thể là chìa khóa mở lối cho nàng vào hạnh phúc.

Hạnh phúc có thể mất?

Thế nhưng, là người, đôi vợ chồng chắc chắn có những giới hạn, yếu kém, bất toàn. Họ phải lụy thuộc vào thời gian, không gian và sự thay đổi. Có những điều cũng tác động đến con người, tình trạng sống của hai người như sức khỏe thể lý hay tâm lý, các thực tại văn hóa – xã hội, các khuynh hướng tâm linh và chính trị, v.v… Có thể, dẫu cả hai tự mình đều đáng quý đáng yêu nhưng, với thời gian đã không được người kia tỏ lòng quý trọng đúng mực do chú ý quá đến những thiếu sót, yếu đuối, bất toàn của người phối ngẫu. Chồng dù yêu thương vợ, nhưng có thể bắt đầu tỏ lộ lạnh nhạt dần khi cảm thấy khó chịu vì những thiếu sót, khuyết điểm, lỗi lầm của nàng. Sự ham muốn nhau có thể giảm dần. Hoặc cũng có thể do người này đi làm ăn xa gia đình trong một thời gian dài, sa ngã trước cám dỗ tìm thấy một người phụ nữ khác hấp dẫn hơn vợ mình. Trong những trường hợp đó, hạnh phúc có thể mất.
“Hồn tôi hết được bình an thư thái, tôi đã quên đi hạnh phúc rồi” (Ac 3,17).
Hạnh phúc hôn nhân mong manh cho đôi bạn ý thức tính tương đối của nó, nhưng điều đó không ngăn cản họ mưu cầu hạnh phúc. Tương đối, nhưng không có nghĩa là ảo tưởng, không biện chính cho giải pháp ly thân hay ly dị khi gặp khó khăn thử thách. Hạnh phúc không hoàn hảo nhắc nhở đôi bạn phải sẵn sàng đối diện với những biến chuyển của cuộc sống, như chuyển biến từ tình trạng hạnh phúc thành không hạnh phúc, và ngược lại. Họ phải làm hết sức để duy trì và khôi phục lại hạnh phúc hôn nhân – gia đình. Một khi đã chọn nhau và tuyên bố ưng thuận thành hôn trước mặt Chúa và cộng đoàn Hội thánh, họ không thể muốn rời khỏi hôn ước. “Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp loài người không được phân ly” (Mt 19,6). Họ không thể nói không còn hạnh phúc nữa thì chia tay thôi. Cả hai cùng có trách nhiệm xây dựng hạnh phúc gia đình của họ. Cả hai chịu trách nhiệm trước mặt Chúa việc họ mất hạnh phúc và hơn thế nữa, việc họ đánh mất tình yêu thương dành cho nhau và cho gia đình. “Nhưng Ta trách ngươi điều này: ngươi đã để mất tình yêu thuở ban đầu” (Kh 2,4).

Hôn nhân hạnh phúc

Vợ chồng hạnh phúc khi có nhau lúc mới kết hôn, mà vẫn tiếp tục quý trọng, yêu thương nhau như kho báu tìm được bằng giá trả cả một đời sống, là điều đẹp lòng Chúa.
Có ba điều tôi hết lòng ao ước, cả ba đều đẹp lòng Đức Chúa và người ta: anh em hoà thuận, láng giềng thân thiết, vợ chồng ý hợp tâm đầu” (Hc 25,1).
Vợ chồng không chỉ coi nhau như kho báu phải giữ gìn, mà còn tìm sự bảo đảm cho hôn nhân hạnh phúc của họ; kẻo phải cứ lo sợ thường xuyên bị mất nhau trước khi ngày đời chấm dứt. Họ sẽ không bao giờ mất hạnh phúc chừng nào họ còn đáp ứng khát khao của nhau. Do đó, hạnh phúc hôn nhân dẫu có tương đối và bất toàn, nhưng có thể được nâng đỡ, duy trì, tiến triển chừng nào còn nhìn thấy nhau như là một phúc lành cho nhau. Hiện có và sẽ luôn có “phúc lành” ấy là người bạn đời. Hạnh phúc không chỉ vì họ có nhau nhưng còn bởi có một “phúc lành lớn hơn” là chính hôn ước của họ. Chúa Giêsu dạy rõ ràng chính Thiên Chúa thiết lập hôn phối giữa chồng và vợ, và bởi thế đó là một phúc lành tự bản chất.
[Chúa Giêsu nói:] “Các ông không đọc thấy điều này sao: ‘Thuở ban đầu, Đấng Tạo Hoá đã làm ra con người có nam có nữ’ và Người đã phán: ‘Vì thế, người ta sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt.’ Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Vậy, sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly” (Mt 19,4-6).
Không ai được phép hạ giá hôn nhân Thiên Chúa đã thiết lập từ thuở ban đầu. Vợ chồng nên “một xương một thịt” trọn đời. Các đôi vợ chồng Kitô hữu được kêu gọi giữ gìn và bảo vệ sự thánh thiện của hôn nhân của họ qua thực hiện lời hứa kết hôn. Cả khi họ phải đi qua gian nan, thử thách, những khó khăn đó trở thành cơ hội cho họ đạt được phúc lành lớn lao hơn, là hôn ước của hai vợ chồng. Hạnh phúc của vợ chồng là ở chỗ họ thực hiện được ước nguyện không có gì có thể chia cắt họ được ngoài sự chết.
Lạy Chúa, xin cho chúng con, dù khi xuôi thuận hay lúc trắc trở, khi giàu có hay lúc nghèo hèn, khi ốm đau hay lúc mạnh khỏe, được hợp nhất nên một lòng một ý một linh hồn, từ hôm nay cho tới lúc mãn đời khi cái chết chia lìa chúng con”.
Lời cầu nguyện này dự phóng trước trong cuộc sống hôn nhân có thể xảy ra những sự kiện tiêu cực hay tích cực, nhưng đôi bạn vẫn có thể hạnh phúc, không bởi hoàn cảnh khách quan trong đó họ đang trải qua, mà do tình trạng hiệp nhất một lòng một ý một linh hồn của họ. Hẳn nhiên, vợ chồng trông mong được hạnh phúc hơn những lúc vui sướng, thịnh vượng, khỏe mạnh, nhưng họ có lý do hạnh phúc hơn nữa nếu họ vẫn một ý một lòng, một linh hồn hiệp nhất yêu thương khi phải cùng nhau chịu đựng những hoạn nạn, khốn khó, và đi qua thành công. “Kìa xem: chúng ta tuyên bố: phúc thay những kẻ đã có lòng kiên trì!” (Gc 5,11).
Cuối cùng, hạnh phúc trọn vẹn nhất chỉ khi hạnh phúc trong Thiên Chúa. Bởi thế, đôi bạn phải đưa nhau ra trước mặt Chúa, và khẩn cầu “Lạy Chúa, xin ban cho chúng con” vì khát khao được dự phần vào hạnh phúc thật chỉ có trong Thiên Chúa. Quả thật, không có hạnh phúc hôn nhân nào lớn lao hơn thấy cả hai người hiện diện trước Chúa “xinh đẹp lộng lẫy, không tỳ ố, không vết nhăn hoặc bất cứ một khuyết điểm nào” (x. Ep 5,25-28).
Câu hỏi chia sẻ hay để thảo luận:
1. Bạn có thấy vui hơn khi ở cùng vợ/chồng bạn không? Tại sao hay tại sao không?
2. Cả hai vợ chồng bạn có sẵn sàng hy sinh vì nhau không? Tại sao hoặc tại sao không?
3. Hai vợ chồng bạn có cầu nguyện chung với nhau không? Cầu nguyện có ảnh hưởng như thế nào đến mối quan hệ phu thê và gia đình bạn?

Tĩnh tâm giáo triều, bài 6: Chúa Giêsu đón nhận tất cả nước mắt của thế giới


Nhà tĩnh tâm Thầy Chí Thánh ở Ariccia - ANSA

Sáng thứ tư 21/02, cha José Tolentino Mendonça, giảng thuyết viên tuần tĩnh tâm dành cho Đức Thánh Cha và giáo triều Roma, đã bắt đầu bài suy niệm thứ 6 với tựa đề “Nước mắt nói lên cơn khát.” Trong suy niệm, cha José giải thích rằng nước mắt của các phụ nữ trong Tin mừng diễn tả cơn khát Chúa Giêsu. Cha đọc lại ý nghĩa của nước mắt trong cuộc sống con người và trong mối quan hệ với Thiên Chúa.

Nước mắt của các phụ nữ trong Tin mừng

Bà Maria, bà góa thành Naim, người phụ nữ tội lỗi. Không thể phủ nhận rằng có nhiều phụ nữ trong Tin mừng với những cảnh đời, tuổi tác, điều kiện kinh tế, cách sống khác nhau, rao giảng Tin mừng. Cách thế của họ là phục vụ; họ không bao giờ đặt câu hỏi để gài bẫy Chúa Giêsu. Điểm chung liên kết tất cả họ là nước mắt, đầy cảm xúc, xung đột, niềm vui và thương đau.

Nhưng nước mắt nói rằng Thiên Chúa nhập thể trong cuộc sống chúng ta, trong các thất bại của chúng ta, trong các cuộc gặp gỡ chúng ta. Trong các Tin mừng, Chúa Giêsu cũng khóc. Chúa Giêsu mang lấy thân phận của chúng ta, Ngài trở thành một người trong chúng ta, và vì điều này, nước mắt của chúng ta được kết hợp trong nước mắt của Người. Người thực sự mang lấy những giọt nước mắt. Khi Người khóc, Người thu nhận và cách liên đới, lau đi tất cả nước mắt của thế giới.

Ước muốn sống

Chính các phụ nữ trong các Tin mừng đã trao quyền công dân cho nước mắt khi tỏ cho thấy tầm quan trọng của dấu hiệu này. Cha Josè đến nhận định của nhà nhà tâm lý học Julia Kristeva: khi một bệnh nhân tuyệt vọng đến phát khóc trên ghế sofa, một điều rất quan trọng đã xảy ra. Đó là anh ta bắt đầu đi xa khỏi cám dỗ tự tử, bởi vì những giọt nước mắt không nói lên ước muốn chết mà là “khao khát sống.”

Thiên Chúa biết nỗi đau khóc lóc

Ngay từ những đứa bé, tiếng khóc cho biết khát mong mối liên hệ. Nhiều vị thánh, như Inhaxiô thành Loyola, đã khóc rất nhiều. Triết gia Cioran nói rằng trong cuộc phán xét cuối cùng sẽ chỉ nước mắt được coi trọng vì nó đem lại cảm giác vĩnh hằng cho tương lai chúng ta, và món qua của tôn giáo chính là điều dạy chúng ta khóc: nước mắt là thứ có thể đưa chúng ta trở thành thánh sau khi là con người.

Tiểu sử của chúng ta có thể được kể lại qua nước mắt: của vui mừng, của ngày hội, của cảm xúc rực sáng; và của đêm tối tăm, khóc lóc, bị bỏ rơi, ăn năn và hối cải. Chúng ta nghĩ đến những giọt nước mắt của chúng ta đã đổ ra, và đến những người vẫn còn nghẹn trong cổ họng và sự thiếu thốn của họ đã khiến chúng ta cảm thấy nặng nề hay cảm thấy nặng nề. Sự đau đớn của những giọt nước mắt đó không phải nước mắt đổ ra vì khóc. Thiên Chúa biết tất cả và đón nhận chúng như một lời cầu nguyện. Do đó, chúng ta tin cậy. Đừng che giấu những giọt nước mắt với Ngài.

Tìm kiếm mối tương giao

Theo Gregorio Nazianzeno, nước mắt theo một nghĩa nào đó là phép thanh tẩy thứ năm. Khi ở trong tù, Nelson Mandela đã khôi phục lại được đôi mắt bị hư, mất đi khả năng đổ lệ, chứ không phải là khao khát công bằng. Cuối cùng, khi người ta khóc, thậm chí là cố gắng không để cho người khác thấy chúng ta khóc, sự thật là chúng ta luôn luôn khóc để người khác nhìn thấy. “Đó là nỗi khao khát người khác làm cho chúng ta khóc”: một người bạn đến và chúng ta cảm thấy rằng chúng ta có thể để cho bản thân mình rơi vào những cảm xúc sâu thẳm nhất của chúng ta.

Cuối cùng, cha Josè đề cập đến người phụ nữ đã khóc và rửa chân Chúa Giêsu bằng nước mắt của bà. Cha lưu ý là nhiều lần, người ta giữ thái độ xa cách và phê bình lòng đạo đức bình dân, trong đó người ta thể hiện mình với vô vàn nước mắt. Đôi khi các mục tử khó có thể nhận ra tôn giáo của những người đơn giản, không dựa trên ý tưởng, mà chỉ dựa vào cử chỉ. Ngược lại, đôi khi người ta có thể sống theo cách dửng dưng lạnh lùng. Chính phẩm chất ấn tượng của những gì người phụ nữ mang đến cho Chúa Giêsu cho phép chúng ta thấy rằng Simon, chủ nhà, đã không cho bất cứ điều gì. Cha Josè kết luận: “Đó là lòng hiếu khách chưa từng thấy mà Chúa Giêsu muốn khen ngợi”. Cơn khát này, mà nước mắt là dấu chỉ, là điều đến lượt chúng ta cần phải học hỏi. (Vatican News 21/02/2018)

Hồng Thủy

Chuyện chưa từng có: Đóng cửa Đền Thờ Thánh Mộ để phản đối chính quyền Do Thái


Các cánh cửa của Đền Thờ Thánh Mộ tại Giêrusalem đã bị khóa lại kể từ hôm Chúa Nhật để phản đối “một chiến dịch sách nhiễu có hệ thống chống lại các Giáo hội và các cộng đồng Kitô tại Thánh Địa, và vi phạm thô bạo thoả ước Nguyên Trạng”

Hôm Chúa Nhật 25/2, thông báo của các nhà lãnh đạo của ba Giáo Hội chịu trách nhiệm coi sóc Đền Thờ Thánh Mộ, đã được dán phía trước lối vào Đền Thờ, nay đã bị niêm phong.

Ba vị lãnh đạo Kitô giáo, gồm có Đức Thượng Phụ Nourhan Manougian của Giáo Hội Armenia Tông Truyền, Đức Thượng Phụ Teofilo III của Chính thống Hy Lạp, và cha Francesco Patton là Bề Trên Dòng Phanxicô Quản Thủ Thánh Địa - đã cáo buộc Israel đã đẩy cuộc tấn công sách nhiễu của mình lên đến “một mức chưa từng có”.

Một trong những lý do của cuộc phản kháng này là việc áp đặt thuế địa phương của thành phố Giêrusalem gọi là thuế “Arnona”. Theo các thoả thuận giữa cộng đồng Kitô hữu và các cơ quan dân sự Israel, các Giáo hội được miễn nộp thuế. Vào ngày 14 tháng 2, các nhà lãnh đạo Kitô giáo đã phản ứng lại yêu cầu của thị trưởng thành phố buộc các cơ sở của các Giáo Hội phải đóng thuế địa phương. Các ngài nhắc lại rằng các Giáo hội đã phải đầu tư “hàng tỷ” Mỹ Kim vào việc “xây dựng trường học, bệnh viện và nhà cửa, nhiều cơ sở trong số này dành cho người cao tuổi và những người gặp khó khăn”.

Hôm Chúa Nhật, ba nhà lãnh đạo tố cáo “hàng loạt các thông báo gây ngỡ ngàng của chính quyền Do Thái và các lệnh tịch thu tài sản, các tài nguyên và tài khoản ngân hàng của các Giáo hội, để trừ vào các khoản thuế cũng như các thứ tiền phạt vì không chịu đóng thuế cho thành phố” do chính quyền thành phố Giêrusalem đưa ra trong những ngày gần đây. Các vụ tịch thu này, theo các vị đứng đầu các Giáo hội, là “những cố gắng nhằm làm suy yếu sự hiện diện của Kitô giáo ở Giêrusalem”, mà chung cuộc “nạn nhân lớn nhất là những gia đình nghèo sẽ không có lương thực và nhà ở, trong khi các trẻ em không được cắp sách tới trường”.

Các ngài cũng tố cáo một dự luật đang được đề xuất cho phép việc quốc hữu hóa các vùng đất của các Giáo hội, mà các ngài gọi là một hành vi “phân biệt đối xử và phân biệt chủng tộc”. Cuộc thảo luận của chính quyền Do Thái đã được lên kế hoạch hôm Chúa Nhật, nhưng đến sáng thứ Hai đã được hoãn lại. 

Theo ba nhà lãnh đạo, đạo luật “ghê tởm” này “sẽ làm cho việc chiếm hữu đất đai của các Giáo hội là khả thi”. Các nhà lãnh đạo các Giáo hội nhắc lại: “Chúng tôi thống nhất, vững vàng và kiên quyết để bảo vệ quyền lợi và tài sản của chúng tôi”.


Đặng Tự Do

Đức Giám mục Cận Lộc Cương: Chúng tôi rất vui mừng về cuộc đối thoại giữa Đức Thánh Cha với Trung Quốc





WHĐ (27.02.2018) – Trong bối cảnh của cuộc đối thoại giữa Toà thánh và Trung Quốc đang diễn ra, đã có những ý kiến phỏng đoán về việc hai bên sắp đạt được thoả thuận trong mối quan hệ giữa Toà thánh và Trung Quốc, đặc biệt là vấn đề bổ nhiệm giám mục, tương lai của các cộng đoàn Giáo hội “thầm lặng”… Một số phát biểu – kể cả của một vài vị chức sắc trong Giáo hội – bày tỏ lo ngại, thậm chí chỉ trích Đức giáo hoàng và Toà thánh chủ trương thoả hiệp, hy sinh quyền lợi hợp pháp của các cộng đoàn Giáo hội “thầm lặng”.

Còn ý kiến của những “người trong cuộc”, của những người thuộc cộng đoàn Giáo hội “thầm lặng” ở Trung Quốc?

Ngày 16-02-2018, trang mạng Vatican Insider đã đăng bài trao đổi với Đức cha Ngụy Cảnh Nghi, một trong những nhân vật có thẩm quyền của cộng đoàn Giáo hội được gọi là “thầm lặng” ở Trung Quốc. Trong cuộc trao đổi này, Đức cha Nghi đã xin các bạn hữu ở ngoài Trung Hoa đại lục, bao gồm cả những ai ở Hong Kong, Ma Cao, Đài Loan: “Đừng phát biểu nhân danh chúng tôi. Đừng cứ nhất quyết nói thay cho chúng tôi. Các vị không phải là người có thể đại diện cho Giáo hội thầm lặng ở Trung Quốc”.

Tiếp theo những phát biểu của Đức cha Ngụy Cảnh Nghi, ngày 23-02-2018, Vatican Insider đã đăng bài trao đổi với Đức cha Cận Lộc Cương, cũng là giám mục của cộng đoàn Giáo hội “thầm lặng”; cuộc trao đổi do phóng viên Gianni Valente thực hiện:

***

– Thưa Đức cha, đất nước của Đức cha đã chứng kiến công trình của các nhà thừa sai thuộc Hội Giáo hoàng Truyền giáo Hải ngoại (PIME) thành công rực rỡ.

– Vào nửa sau của thế kỷ XIX, đó là những người đã khai sinh hạt Đại diện Tông toà đầu tiên ở Hà Nam, thuộc miền trung Trung Quốc. Gia đình tôi là gia đình Công giáo và tôi chịu chức linh mục vào năm 1992; lúc ấy giám mục tiên khởi của giáo phận Nam Dương là Đức cha Giuse Cận Đức Thần, là người họ hàng của tôi. Hiện nay, giáo phận Nam Dương có khoảng 20.000 tín hữu, với khoảng 50 nữ tu và 23 linh mục.

– Các sự kiện gần đây trong giáo phận của Đức cha dường như là dấu chỉ cho thấy tình hình của Giáo hội Công giáo ở Trung Quốc thật phức tạp.

– Năm 1995, Đức Giám mục Giuse Chu Bảo Ngọc (sinh năm 1921) được bổ nhiệm làm giám mục Nam Dương. Trước đó – trong những năm 1960 và 1980 – ngài đã trải qua nhiều năm trong tù và trong các trại cải tạo. Ngài là một giám mục của cộng đoàn Giáo hội “thầm lặng”, được Đức giáo hoàng bổ nhiệm nhưng không được chính quyền chấp thuận. Sau đó, vào năm 2007, tôi được bổ nhiệm làm giám mục phó với quyền kế vị, vẫn theo cách “bí mật”. Đến năm 2010, Toà thánh đã chấp thuận cho Đức cha Chu từ nhiệm, và tôi trở thành bản quyền của giáo phận. Nhưng ngay sau đó, bộ máy chính quyền địa phương đã quyết định công nhận Đức cha Chu là giám mục “chính thức”, và vào ngày 30 tháng Sáu, họ để ngài nhận Nhà thờ chính toà với tư cách giám mục được chính phủ công nhận. Thế là giáo phận trở thành “chính thức”. Bây giờ cả hai chúng tôi đều là giám mục được Đức giáo hoàng phê chuẩn, nhưng chính quyền chỉ chính thức công nhận Đức cha Chu là giám mục của giáo phận, hiện nay ngài đã 97 tuổi.

– Mối tương quan của hai Đức cha như thế nào?

– Chúng tôi là hai giám mục sống hiệp thông với nhau trong cùng một thành phố. Đức cha Chu là nguyên giám mục, còn tôi là giám mục chính toà. Ngài được chính quyền công nhận, thì ở Nhà thờ chính toà; còn tôi ở tại giáo xứ trong thành phố. Nhưng tôi vẫn có thể viếng thăm mục vụ tất cả các giáo xứ khác. Và đôi khi tôi cũng cử hành Thánh lễ ở Nhà thờ chính toà. Cả hai chúng tôi luôn trung thành với Đức giáo hoàng và Toà thánh. Và trong mấy năm gần đây, từ khi cuộc đối thoại được mở lại, mọi chuyện cũng đã được cải thiện về phía chính phủ, họ không yêu cầu chúng tôi bất cứ điều gì đi ngược lại đức tin Công giáo. Tôi chỉ cần thông báo cho chính quyền khi tôi rời khỏi Nam Dương.

– Nhưng trong quá khứ, Đức cha cũng đã chịu áp lực, bị trục xuất khỏi giáo phận và bị buộc tham dự các khoá “nhồi sọ”.

– Những người trong chính quyền bảo tôi không được cử hành nghi thức nhận giáo phận. Tôi thì luôn tuyên bố rằng tôi có thể không cử hành nghi thức cách công khai, nhưng tôi vẫn là giám mục giáo phận Nam Dương. Vào năm 2012, họ đưa tôi đến khách sạn trong dịp lễ Phục Sinh, nên tôi không thể cử hành Tam nhật thánh được. Nhưng đó là thời kỳ căng thẳng giữa Trung Quốc và Vatican.

– Nếu Toà thánh và chính phủ Trung Quốc đạt được thỏa thuận, Đức cha có cảm thấy rằng những nỗ lực và đau khổ ấy đang bị lờ đi, bị phản bội không?

– Chúng tôi chỉ muốn bước theo Chúa Giêsu, muốn hiệp nhất với Đức giáo hoàng và với toàn thể Giáo hội Công giáo. Điều này có thể có cả nhọc nhằn và đau khổ. Đó là một phần cuộc sống của chúng ta theo Phúc Âm. Nếu chúng ta sống những đau khổ này cùng với Chúa Giêsu, hiệp nhất với Người, thì cũng như dự phần vào những đau khổ của Người. Và Chúa Giêsu không để cho những đau khổ của chúng ta rơi vào hư không. Người biết những đau khổ ấy, đón nhận và làm cho những đau khổ ấy trở nên quý giá. Thế nên chúng tôi không cần bất kỳ sự nhìn nhận nào khác, không cần phần thưởng nào khác. Chúng tôi không muốn trách cứ ai vì chúng tôi thấy Chúa Giêsu đã nhận lấy những đau khổ của chúng ta.

– Vậy, Đức cha nhận định thế nào về những thông tin nói rằng có thể đã có những tiến triển trong cuộc đối thoại giữa Toà thánh và chính phủ Trung Quốc?

– Nếu chính phủ hiện đang nói chuyện với Đức giáo hoàng, điều đó có nghĩa là họ nhìn nhận Đức giáo hoàng. Đây là một tin vui khiến chúng tôi vui mừng. Những đấu tranh và khó khăn của quá khứ không mất đi, chúng là một phần của cuộc sống chúng ta với Chúa Kitô. Nhưng lúc này tôi không nghĩ về quá khứ, về những giai đoạn khó khăn ấy. Nếu chính phủ nói chuyện với Đức giáo hoàng, tức là họ nhìn nhận Đức giáo hoàng, và chúng tôi sẽ có thể bày tỏ sự hiệp thông trọn vẹn với Đức giáo hoàng.

– Nhưng có những người lại đang gây áp lực để thuyết phục Đức giáo hoàng đừng tiếp tục đối thoại với Trung Quốc. Họ cũng nói rằng một thỏa thuận với Trung Quốc là sự phản bội đối với nỗi đau khổ của Đức cha.

– Nhưng chúng tôi phải chịu đựng mọi khó khăn để không che giấu sự hiệp thông với Đức giáo hoàng. Và bây giờ, nếu có sự cảm thông giữa Đức giáo hoàng và chính phủ, thì sao chúng tôi lại không thể vui mừng về điều đó? Sao chúng tôi lại không theo ngài? Điều đó có nghĩa là chúng tôi có thể tiến đến sự hiệp nhất trọn vẹn với Đức giáo hoàng. Và chúng tôi chắc chắn không nghĩ đến việc làm khác đi. Nếu Đức giáo hoàng đạt được thoả thuận với chính phủ, chúng tôi sẽ theo ngài, tiếp tục cùng với ngài đi theo con đường chúng tôi phải đi, với những đau khổ nhọc nhằn. Vì theo Chúa Giêsu là chấp nhận chịu đau khổ, và cũng vì thế mà bây giờ chúng tôi vui mừng, bởi vì một số vấn đề sẽ được giải quyết và chúng tôi có thể đi xa hơn.

– Nhưng bây giờ, nói một cách cụ thể, công việc trong giáo phận của Đức cha ra sao?

– Các linh mục của chúng tôi đoàn kết với nhau, tôi muốn rằng các quyết định có sự tham khảo ý kiến của tất cả các linh mục. Tất cả chúng tôi làm việc vì sự hiệp nhất của Giáo hội, và tôi thấy rằng Đức giáo hoàng Phanxicô đang hướng dẫn chúng tôi sống sự hiệp nhất ấy. Chúng tôi cũng đã cất một ngôi nhà cho người khuyết tật và hai nhà cho người già.

– Nhưng Đức cha không hề quan tâm đến các cuộc đàm phán giữa Chính phủ Trung Quốc và Toà thánh? Đức cha không có ý kiến gì sao?

– Tất nhiên, tôi yêu cầu phải luôn thận trọng trong tiến trình này. Nhưng cuộc đối thoại được bắt đầu trong những năm gần đây đã mang lại một số điểm lợi cho chúng tôi. Chính phủ chỉ yêu cầu chúng tôi đăng ký. Các linh mục đều đã đăng ký. Và nếu Toà thánh bảo tôi rằng tôi có thể làm như vậy để giúp cho công việc mục vụ, thì chính tôi cũng sẽ đăng ký. Tôi tin rằng trong tất cả những điều này, trong các mối quan hệ với chính phủ và các nhà cầm quyền chính trị, chúng ta phải luôn tuân theo lời Chúa Giêsu đã dạy: “Hãy trả lại cho Cesar những gì thuộc về Cesar, và trả lại cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa”.

(Theo Vatican Insider)

***

Cũng nên nhắc lại, trong một bài viết dài đăng trên Công Giáo Báo –cơ quan truyền thông của giáo phận Hong Kong–, Đức hồng y Gioan Thang Hán, nguyên giám mục Hong Kong, đã từng viết: “Nhiều anh chị em thuộc cộng đoàn Giáo hội thầm lặng cũng ủng hộ cuộc đối thoại giữa Toà thánh và Bắc kinh… Họ tin rằng việc bình thường hoá quan hệ giữa Vatican và Trung Quốc có thể mang lại những điều tốt lành cho nhân dân Trung Quốc chứ không chỉ cho người Công giáo… Dân Chúa tại Trung Quốc sẽ được tự do hơn trong việc thực hành đức tin… Do đó, chúng ta hãy bước theo Đức giáo hoàng và tin tưởng vào bất cứ quyết định nào của ngài về mối quan hệ với Trung Quốc” (Sự hiệp thông của Giáo hội tại Trung Quốc với Giáo hội phổ quát, 31-7-2016). 

Minh Đức chuyển ngữ
Nguồn: http://www.hdgmvietnam.org/duc-giam-muc-can-loc-cuong-chung-toi-rat-vui-mung-ve-cuoc-doi-thoai-giua-duc-thanh-cha-voi-trung-quoc/9481.57.7.aspx