Ý cầu nguyện tháng

- Ý CẦU NGUYỆN THÁNG 10:

Cầu cho sứ vụ của người giáo dân trong Giáo Hội:
Xin cho các Kitô hữu giáo dân, cách riêng là phụ nữ, khi đã lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, có thể tham gia nhiều hơn vào các cơ quan hữu trách của Giáo Hội.

Thứ Tư, 26 tháng 8, 2020

CHÚC MỪNG LỄ THÁNH MONICA - Bổn mạng Hội Các Bà Mẹ Công giáo

 Thánh Monica sinh vào năm 332 tại một thành phố nhỏ thuộc vùng Bắc Phi. Tại quê hương của Ngài lúc đó vẫn còn rất nhiều người ngoại giáo, và các Ki-tô hữu ở đây chỉ là một nhóm nhỏ. Thật hạnh phúc cho Monica vì cha mẹ của Ngài là những Ki-tô hữu thánh thiện.

Khi Monica đến tuổi trưởng thành, cô đã được gả cho một viên chức trong thành phố tên là Patrik. Nhưng Patrik lại là người ngoại. Việc một nữ Ki-tô hữu kết hôn với một người ngoại là điều không mấy phổ biến hồi ấy, vì các Ki-tô hữu thời ấy thường chỉ kết hôn với nhau chứ không bao giờ có những cuộc hôn nhân hỗn hợp giữa người Ki-tô hữu và người ngoại giáo. Nhưng dẫu vậy thì trường hợp của Monica cũng có thể giải thích được. Tại quê của Ngài lúc đó có rất ít các Ki-tô hữu, nên cô gái Monica hầu như không có chọn lựa nào khác ngoài việc phải kết hôn với một người ngoại. Nhưng sự chọn lựa này đã trở thành nguyên cớ để sau này Monica phải hối tiếc với rất nhiều nước mắt, vì chồng của bà rất dễ dàng nảy đóa. Và với tư cách là người ngoại đạo, ông ta không hề biết đến giới luật Ki-tô giáo, nên ông ta rất dễ dàng cáu tức với những sự việc dù đó là những điều nhỏ nhoi nhất. Ông ta thường xuyên đánh đập vợ mình. Đó là một nỗi cay nghiệt đối với Monica, nhưng Monica coi Thánh Giá này còn nhẹ hơn cả nỗi khổ đau khác mà một người mẹ Ki-tô hữu phải mang, đó là việc trong số những đứa con của bà, có một kẻ vô cùng mất dậy.

Monica có ba người con, hai cậu con trai và một cô con gái. Ngay từ lúc Thánh Monica còn sinh thời, cô con gái này đã là ánh sáng mặt trời đối với Bà. Cậu con thứ của Bà cũng rất ngoan ngoãn và tốt lành. Nhưng đứa con trai cả của bà tên là Augustinô thì lại là một kẻ lười biếng thực thụ.

Dù là kẻ biếng nhác đúng nghĩa, nhưng Augustinô lại luôn mang về nhà những kết quả tốt đẹp trong việc học tập. Tuy vậy, bà Monica vẫn phải thường xuyên nghe các thầy cô giáo than phiền về đứa con trai của bà, vì đứa con này thường xuyên trốn học, thiếu tập trung trong lớp, hay nói leo và thường xuyên kích động bạn bè. Người mẹ tội nghiệp Monica không thể cãi được bất cứ một lời nào trước những than phiền đó, vì bà biết rất rõ rằng, những lời than phiền đó quá thực. Chưa hết, Augustinô còn thường xuyên nói dối mẹ mình. Đã vậy, anh ta còn đánh cắp nhiều đồ đạc của mẹ. Không chỉ thiếu vâng lời với mẹ, Augustinô còn tỏ ra là một đứa con ngỗ nghịch và bướng bỉnh theo đúng nghĩa đen nữa.

Monica còn phải đối diện với một chuyện tồi tệ hơn, vì khi Augustinô tới tuổi trưởng thành, anh đã sa vào nhóm những đồng nghiệp xấu. Ngay lập tức toàn thành phố xì xèo về anh, và vì thế mẹ anh đã cảm thấy vô cùng xấu hổ và mất mặt, bởi con của bà là một đứa con đồi bại. Nhưng Augustinô còn tỏ ra tai quái và khốn nạn ở chỗ là, vì sự cuồng vọng, anh không ngừng khoe khoang về những hành vi đáng xấu hổ của mình, và anh muốn chứng tỏ với mọi người rằng, anh là kẻ đồi bại nhất trong nhóm những người bạn vốn đã vô cùng xấu xa của anh.

Hồi đó, bà Monica thường xuyên nhắc nhở đứa con trai ngỗ ngược của bà phải làm điều lành, phải sống nghiêm túc và tốt lành, nhưng Augustinô chỉ phản ứng lại với một cái nhún vai trước những lời trách móc đầy từ mẫu của mẹ. Và khi Augustinô coi những lời nhắc nhở của mẹ là sự quấy nhiễu càng ngày càng quá sức chịu đựng đối với mình, anh đã trốn khỏi nhà. Vào năm 370, Augustinô đã trốn nhà và đi đến Carthago, tức Tunisie ngày ngay. Sau đó anh đi tới Rô-ma và tới Milan.

Từ khi Augustinô trốn nhà ra đi, cuộc đời của Thánh Monica không còn có điều chi đặc biệt ngoài việc dành trọn thời gian để cầu nguyện cho đứa con ngỗ ngược đó. Trong lúc cầu nguyện, nước mắt đắng cay của bà không ngừng tuôn rơi, và chỉ mong sao đứa con trai cả của mình mau sám hối quay về. Càng không thấy Augustinô quay về, bà càng cầu nguyện thiết tha hơn cũng như càng than khóc nhiều hơn, đến độ một lần kia vị Giám mục Giáo phận đã phải an ủi và nói với bà rằng:

Này bà mẹ Monica! Giờ của Chúa chưa điểm đối với con bà. Bà hãy tiếp tục cầu nguyện cho nó và hãy tin tưởng hy vọng, vì một đứa con của quá nhiều nước mắt và lời cầu nguyện sẽ không thể hư đi mất.

Vị Giám Mục trên đã có lý. Tuy nhiên, Thánh Monica đã phải mất tới 18 năm trời để khóc và cầu nguyện cho con trai của bà. Thiên Chúa đã để cho bà phải chờ đợi trong cầu nguyện và nước mắt suốt 18 năm trời rồi Ngài mới chấp nhận chịu thua trước sức tấn công như vũ bão của bà. 

Cuối cùng, những lời cầu nguyện đầy tin tưởng và tín tác trong một cách thức quá ư tuyệt hảo của người mẹ này đã được lắng nghe. Vào năm 385, khi biết được Augustinô đang ở Milan, bà đã đến đó để cùng đồng hành với con. Dưới sự ảnh hưởng tích cực của Thánh Ambrosiô Giám Mục Milan hồi đó, Augustinô đã trở lại và xin lãnh nhận Bí Tích Thanh Tẩy. Vào ngày 15 tháng 08 năm 386, Augustinô đã được lãnh nhận các Bí Tích khai tâm Ki-tô giáo từ chính tay Đức Giám Mục Ambrosiô. Augustinô đã tỏ ra hoán cải một cách thực sự cũng như đã hoán cải một cách hoàn toàn, đến độ Ngài đã trở thành một vị đại Thánh. Có thể nói được rằng, nếu không nhờ vào lời cầu nguyện liên lỷ và kiên tâm của Thánh Nữ Monica thì cuộc trở lại của Augustinô, trong chừng mực nào đó, hầu như đã không xảy ra. Sau khi đạt được ước nguyện với việc trở lại của con trai mình, vào Lễ Phục Sinh năm 387, Thánh Monica đã lên đường trở về quê hương với sự đồng hành của chính Augustinô. Tuy nhiên, vào tháng 10 năm 387 khi vừa mới chỉ đến được thành phố cảng Ostia của Ý, Thánh Nữ Monica đã bị lên cơn sốt và qua đời ở đó. Thánh Nữ đã qua đời trước niềm vui bởi ước nguyện lớn nhất của đời bà đã xảy ra trước đó không lâu: bà đã được tận mắt chứng kiến cảnh đứa con trai cả của mình hoán cải và làm hòa với Thiên Chúa. Và việc đứa con mà bà đã phải vô cùng lo lắng và chăm lo cho nó, giờ đây đã trở thành một vị Thánh, đó chính là một niềm hạnh phúc không gì sánh bằng đối với bà, vì đối với một người Mẹ, không có vinh dự nào lớn lao nơi Thiên Chúa và nơi con người cho bằng việc bà có một đứa con thánh thiện. “Tất cả những gì tôi là, tôi đều phải biết ơn Mẹ tôi” – Thánh Augustinô đã thừa nhận một cách công khai như thế. Và đó cũng là lời khen tuyệt vời nhất mà một người con trai có thể dâng lên người mẹ tuyệt trần của mình!

Sau khi Thánh Nữ Monica qua đời, con trai của bà là Augustinô đã an táng Thân Mẫu mình ngay tại nơi bà qua đời, tức tại thành phố cảng Ostia của Ý.

Vào năm 1162, các Thánh Tích của Thánh Monica đã được cung nghinh tới Arras thuộc khu vực miền Bắc nước Pháp. Kể từ đó việc tôn kính Thánh Nữ Monica mới được lan rộng. Vào năm 1430, Đức Thánh Cha Martin V đã ra lệnh cung nghinh các Thánh Cốt của Thánh Monica từ Ostia về Rô-ma, và đặt các Thánh Cốt đó trong một nhà thờ được gọi tên theo tên của con trai bà, đó là nhà thờ S. Agostino tại Rô-ma.

Vào năm 1945 người ta đã phát hiện ra một phần di tích của ngôi mộ Thánh Monica tại Ostia.

Từ thế kỷ thứ XIII tới năm 1969, Thánh Monica được Giáo hội cử hành Lễ mừng vào ngày mồng 04 tháng 05. Nhưng kể từ cuộc cải tổ lịch Phụng Vụ vào năm 1969, Lễ kính Thánh Monica được dời sang ngày 27 tháng 08, ngay ngày hôm trước Lễ kính Thánh Augustinô, con trai của Bà. Giáo hội Công giáo mừng kính Thánh Nữ Monica với bậc Lễ nhớ buộc, tức Lễ bậc III. Và Giáo đặt Thánh Monica làm Nữ Bổn Mạng của giới phụ nữ cũng như của các bà mẹ Công giáo.

Lm. Đa-minh Thiệu

Nguồn: https://daminhtamhiep.net/2016/08/thanh-monica/

Thứ Ba, 25 tháng 8, 2020

Vatican trước đại dịch Covid-19

VATICAN POPE FRANCIS URBI ET ORBI  CORONAVIRUS COVID 19

Đại dịch Covid-19 tiếp tục lan tràn làm tê liệt nhiều hoạt động của xã hội, và cả các sinh hoạt tôn giáo, đặc biệt tại Vatican. Dầu vậy, ĐTC Phanxicô vẫn tìm mọi cách để giúp đỡ các tín hữu, nhất là về tinh thần, và cả các giới hữu trách trong các chính quyền.

Tình trạng bi thảm điển hình: ngành du lịch thế giới

Trong sứ điệp công bố ngày 7-8-2020, nhân Ngày Thế giới về du lịch lần thứ 41 sẽ được cử hành vào ngày 27-9 tới đây với chủ đề “Du lịch và sự phát triển nông thôn”, ĐHY Peter Turkson, Bộ trưởng Bộ Phát triển nhân bản toàn diện ghi nhận: Ngày Thế giới này năm nay diễn ra trong bối cảnh bấp bênh do đại dịch Covid-19 gây ra. Sự di động của con người và ngành du lịch quốc gia và quốc tế bị giảm sút rất nhiều, xuống đến mức thấp nhất lịch sử. Việc ngưng các chuyến bay quốc tế, đóng cửa các phi trường và biên giới, các biện pháp nghiêm ngặt giới hạn du hành, kể cả nội bộ, đang tạo nên một cuộc khủng hoảng chưa từng có trong nhiều lãnh vực có liên hệ tới kỹ nghệ du lịch. Người ta sợ rằng điều tệ hại nhất có thể xảy ra là vào cuối năm nay, 2020, số du khách quốc tế sẽ giảm khoảng 1 tỷ 200 triệu người, gây thiệt hại khoảng 1.200 tỷ mỹ kim cho nền kinh tế thế giới, đặc biệt là sự thất thoát kinh khủng về công ăn việc làm trong lãnh vực du lịch. Theo ông Zurab Pololikashvili, Tổng thư ký Tổ chức thế giới về du lịch, thì ”ngành du lịch bị thiệt hại nhiều hơn cả do tình trạng bị lockdown, bế quan tỏa cảng, trên thế giới, khiến cho hằng triệu công ăn việc làm đã, đang và còn bị lâm nguy”.

Vatican và các trung tâm hành hương

Nếu đi vào một trường hợp cụ thể, điển hình hơn, người ta có thể nói Vatican và các trung tâm hành hương thuộc vào số những nơi bị thiệt hại nhiều nhất vì thiếu các tín hữu hành hương và du khách nói chung. Ông Sergio Destito, phát ngôn viên của Văn phòng giáo phận Roma về hành hương, nói với đài truyền hình ”Lời Vĩnh Cửu” ở Mỹ rằng ”cho đến khi có sự chắn chắn hơn, chúng tôi không thấy có sự phục hồi hoàn toàn được”. Còn cơ quan du lịch quốc gia Italia cho biết có sự giảm sút tới 90% các du khách nước ngoài từ 13-7 đến 23-8-2020. Cơ quan này cho biết số du khách quốc tế đến Italia giảm 35 triệu người so với năm ngoái. Du lịch quốc tế từ nhiều nước ngoài Âu Châu đến Italia, kể cả các cuộc hành hương, bị coi là không thiết yếu nên bị hạn chế. Và tuy biên giới giữa các hầu hết các nước Âu Châu đã được mở lại nhưng số du khách vẫn ít ỏi. Ví dụ trong tháng 8 này, đặc biệt là vào khoảng giữa tháng 8 là thời cao điểm nhất trong ngành du lịch ở Italia, số du khách từ nước ngoài đến đây giảm 80%, nhưng bù lại số du khách nội địa của Italia tăng thêm. Phần lớn họ đến các vùng bãi biển hoặc lên miền núi để nghỉ ngơi. Số du khách từ hai nước láng giềng Pháp và Tây Ban Nha sang Italia cũng giảm mất 80, 90%.

ĐTC Phanxicô "bị kẹt” tại Vatican

Tại khu vực Vatican chẳng hạn, các cửa tiệm trống vắng khách. Từ hơn 4 tháng nay, tuy ĐTC đã có thể chủ sự kinh truyền tin trưa chúa nhật và ngày lễ với sự tham dự của từ 1 đến 2 ngàn tín hữu, nhưng các buổi tiếp kiến chung những ngày thứ tư, chỉ tiến hành trực tuyến, không có tín hữu tham dự, không có các buổi lễ lớn có tín hữu tham dự tại đền thờ thánh Phêrô và quảng trường bên ngoài. Trong tình đó, cũng có người thấy tội nghiệp của ĐGH, như cha Thomas Reese, dòng Tên nổi tiếng người Mỹ, đã từng làm phó chủ nhiệm tạp chí America của dòng tại Hoa Kỳ. Trong một bài với tựa đề "5 điều mà ĐGH Phanxicô cần làm trong khi bị cầm tù vì đại dịch” đăng ngày 14-8-2020 trên tạp chí "National Catholic Reporter”, (Phóng viên Công Giáo quốc gia), có xu hướng cấp tiến ở Mỹ, Cha Thomas Reese viết: "ĐGH Phanxicô với tâm hồn là một mục tử thích ở với dân của Ngài, nhưng đại dịch Covid-19 đã làm cho điều đó không thể thực hiện được. Ngài không thể du hành hoặc mời các đám đông đến Quảng trường thánh Phêrô. Ngài không thể ôm hôn bệnh nhân và người tàn tật. Ngài không thể nói với các tín hữu hành hương, không thể cử hành thánh lễ cho đông người”. Đức Phanxicô đã trở thành một tù nhân ở Vatican, điều mà không bao giờ ngài muốn. Vậy điều gì ngài phải làm với tất cả thời gian còn dư như thế?

”5 điều ĐGH cần làm”

Và ký giả này nghĩ ra những điều ĐGH cần làm, như giảng và viết về đại dịch để mang lại an ủi và hy vọng cho thế giới, nhắc nhở các chính phủ về cách thế đối phó với Covid-19 làm sao phản ánh tình thương Kitô và giáo huấn xã hội Công Giáo; ĐGH cần triệu tập một hội nghị trực tuyến các chuyên gia về thảo luận về cách sử dụng Internet và các mạng xã hội để thăng tiến các cộng đoàn tiềm thể cỡ nhỏ trong Giáo Hội, tiếp đến ĐGH cần đối phó với nạn tham nhũng tài chánh trong Vatican và giáo Hội. Sau cùng là cải tổ giáo triều Roma, là cơ cấu hành chánh giúp ĐGH cai quản Giáo Hội và Quốc gia thành Vatican..”

Hoạt động của ĐTC giữa đại dịch

Thật ra đó cũng là những điều ĐTC đã và đang làm. Ngài đã bắt đầu loạt bài giáo lý mới trong các buổi tiếp kiến chung trực tuyến mỗi sáng thứ tư, nói về Giáo Hội thời đại dịch. Trong bài thứ ba hôm 19-8-2020, ĐTC nói về sự chọn lựa ưu tiên dành cho người nghèo: đó là một chọn lựa đến từ chính Chúa Giêsu, đã xuống thế đồng hành với loài người, đặc biệt những người bé nhỏ, nghèo khổ. Từ hướng đi tổng quát này, ĐTC cổ võ việc xây dựng một nền kinh tế thời hậu đại dịch trong đó người nghèo không còn bị gạt bỏ. Ngài nói:

Cổ võ nền kinh tế không quên người nghèo

"Một nền kinh tế không tìm đến những phương thế chữa trị, thì trong thực tế, nó làm cho xã hội bị nhiễm độc, như những lợi lộc tách rời khỏi việc kiến tạo những công ăn việc làm xứng đáng (Xc EG 204). Những thứ lợi lộc ấy tách biệt khỏi nền kinh tế thực tế, nền kinh tế phải mang lại lợi ích cho dân thường (X. Laudato sì, LS, 109) và ngoài ra, nhiều khi chúng dửng dưng đối với những thiệt hại gây ra cho căn nhà chung. Sự ưu tiên dành cho người nghèo đòi hỏi nền luân lý đạo đức - xã hội này đến từ tình yêu của Thiên Chúa (Xc LS, 158),- mang lại cho chúng ta động lực để suy nghĩ và đề ra một nền kinh tế trong đó con người, nhất là những người nghèo nhất, ở vị trí trung tâm. Và nó cũng khích lệ chúng ta đề ra kế hoạch chữa trị virus dành ưu tiên cho những người cần nhất. Thật là buồn nếu thuốc chủng ngừa - vắc-xin - chống Covid-19 dành ưu tiên cho những người giàu nhất! Thật là buồn nếu vắc-xin ấy trở thành tài sản của nước này hay nước kia, chứ không phải là điều phổ quát, cho tất cả mọi người. Và thật là một gương mù nếu tất cả sự giúp đỡ kinh tế mà chúng ta đang thấy - phần lớn bằng công quĩ - được tập trung để cứu các công nghệ không góp phần hội nhập những người bị loại trừ, không thăng tiến những người rốt cùng, công ích hoặc chăm sóc thiên nhiên (ibid.). Đó là những tiêu chuẩn để chọn lựa xem đâu là những công nghệ cần giúp đỡ: những công nghệ góp phần bao gồm những người bị loại trừ, thăng tiến những người rốt cùng, góp phần vào công ích và chăm sóc môi trường.

Chữa lành ”dịch tinh thần”

Và ĐTC kết luận rằng: ”Nếu virus tái bùng lên trong một thế giới bất công đối với những người nghèo và những người dễ bị tổn thương nhất, thì chúng ta phải thay đổi thế giới này. Theo gương của Chúa Giêsu, vị y sĩ của tình thương toàn diện của Thiên Chúa... chúng ta phải hành động ngay bây giờ, để chữa lành những thứ dịch tễ do các virus bé nhỏ vô hình tạo nên, và chữa lành những thứ dịch do các bất công xã hội to lớn và hữu hình gây ra. Tôi đề nghị rằng điều đó được thực hiện khởi đi từ tình thương của Thiên Chúa, đặt ngoại ô ở trung tâm và đặt những người rốt cùng ở chỗ thứ nhất. Đi từ tình yêu ấy, được ăn rễ nơi niềm hy vọng và dựa trên đức tin, một thế giới lành mạnh hơn là điều có thể.”

Tổng thống Hàn quốc xin các giám mục giúp chống virus corona

Moon meets Catholic Church leaders
Tổng thống Moon Jae-in trong buổi gặp các nhà lãnh đạo Giáo hội Công giáo  (ANSA)

Hôm thứ Năm 20/08 vừa qua, Tổng thống Moon Jae-in của Hàn Quốc, người đang phải đối mặt với áp lực gia tăng do một số chính sách của ông, đã tổ chức một bữa tiệc trưa với các nhà lãnh đạo Công giáo và yêu cầu họ hợp tác trong việc chống virus corona.

Tham dự bữa tiệc trưa của Tổng thống có Đức Hồng y Andrew Yeom Soo-jung, tổng giám mục Seoul; Đức tổng giám mục Hyginus Kim Hee-jong của giáo phận Gwangju; Đức tổng giám mục Thaddeus Cho Hwan-kil của Deagu; và một số giám mục khác.

Trong buổi họp mặt, Tổng thống Moon nói: “Chúng ta phải vượt qua virus corona, chúng ta sẽ làm hết sức mình để vượt qua khủng hoảng một cách nhanh chóng và giảm thiểu thiệt hại kinh tế.” Ông cho biết ông cũng dự định sẽ gặp gỡ các nhà lãnh đạo Ki-tô giáo khác.

Giáo hội Công giáo trở thành “hình mẫu” trong việc ngăn chặn lây nhiễm

Theo tin từ văn phòng Tổng thống, Tổng thống Moon đã ca ngợi Giáo hội Công giáo vì hành động nhanh chóng của họ trong việc tuân theo các hạn chế kiểm dịch của chính phủ trong đợt Covid-19 đầu tiên của Hàn Quốc vào tháng Hai.

Khi cả nước tìm cách ngăn chặn đợt bùng phát hàng loạt thứ hai, Tổng thống Moon, một tín hữu Công giáo, đã yêu cầu Giáo hội trở thành “hình mẫu” trong việc ngăn chặn lây nhiễm; ông nhấn mạnh rằng nếu các biện pháp phòng ngừa hiện tại không thành công, ông sẽ buộc phải tăng mức độ cách ly xã hội và điều này sẽ gây ra “thiệt hại kinh tế vô cùng.” Ông nói: “Tôi muốn quý vị chăm sóc tâm hồn của người dân, bị đè nặng bởi Covid-19 đang kéo dài, và truyền sự can đảm và khả năng lãnh đạo cần thiết để hiệp nhất mọi người vì sự an toàn trong bối cảnh dịch bệnh bùng phát.

Giáo hội cam kết hợp tác và hỗ trợ trong cuộc chiến chống virus corona

Đáp lại lời nhận xét của Tổng thống Moon, Đức Hồng y Yeom cam kết sự hỗ trợ và hợp tác của Giáo hội; ngài nói: “Chúng tôi sẽ ở bên ông và khuyên mọi người thực hiện tốt phần của họ ở vị trí của họ.”

Hàn Quốc đang chiến đấu để ngăn chặn làn sóng nhiễm virus thứ hai. Cho đến nay, nước này đã có hơn 16.000 ca nhiễm và hơn 300 người chết vì virus. Đầu tuần này, chính quyền ra một lệnh mới, cấm các buổi tụ họp tôn giáo trong nhà thờ ở thủ đô Seoul và vùng lân cận. Chính phủ cũng đã thực thi các biện pháp giãn cách xã hội mạnh mẽ hơn tại Seoul, Incheon và tỉnh Gyeonggi, cấm tụ tập hơn 50 người trong nhà và 100 người ngoài trời. Các nhà thờ lại được yêu cầu cử hành phụng vụ trực tuyến.

Kết thúc buổi gặp gỡ, Đức tổng giám mục Hee-jong cầu nguyện xin Chúa ban cho Tổng thống Moon “sự khôn ngoan của vua Salomon” để vượt qua virus corona và bảo đảm an tinh quốc gia. (Crux 21/08/2020)

Điều giáo dân trông đợi nơi linh mục

Giáo dân Việt Nam rất quý trọng linh mục. Lòng quý trọng này vừa là một lợi điểm lại vừa là một nguy cơ. Là lợi điểm vì giúp cho linh mục cảm thấy mình cần thiết và có ích. Từ chỗ này, linh mục cũng cảm thấy ít bị cô đơn. Là nguy cơ, vì lòng quý trọng ấy có thể làm cớ cho linh mục ỷ y mà tôn mình lên, coi thường thiên hạ, cho mình có quyền ăn trên ngồi trước.

Lòng quí trọng của giáo dân dành cho linh mục nên được coi là một ơn riêng Chúa dành cho hàng ngũ linh mục Việt Nam. Nhờ đó các vị được an vui và phấn khởi trong chức vụ. Vậy, với lòng quý trọng này, giáo dân đợi chờ gì nơi linh mục?

Giáo dân trông chờ linh mục là người của Chúa Giêsu, gần gũi và đầy tinh thần phục vụ.

Chức linh mục được đề cao đến tận tầng mây

Từ xưa và bây giờ cũng thế, giáo dân được nghe nói linh mục là một Đức Kitô khác, nhất là trong các lễ mở tay (mà bây giờ gọi là lễ tạ ơn sau ngày chịu chức). Chức linh mục được đề cao và đưa lên đến tận tầng mây. Do sự đề cao quá đáng quyền chức này mà linh mục cũng dễ bị cám dỗ tôn mình lên, nhất là trong ngày chịu chức, khi người ta đến xin phép lành đầu tay hay ngỏ lời chúc mừng. Thời trước Công đồng Vaticano II, người ta thường đến quì trước tân linh mục để hôn tay và xin phép lành.

Hồi đầu tháng 12-2004, tại lễ truyền chức linh mục ở Đài Bắc cho mười một phó tế, nhiều người cũng đã làm như thế. Đây là một cử chỉ đầy lòng tin và sự khiêm nhường.

Cử chỉ này có thể làm cho tân linh mục xúc động và tăng thêm lòng tạ ơn Thiên Chúa. Có lẽ vì coi linh mục như một Đức Kitô khác nên người ta mới có những cử chỉ như thế. Qua đó linh mục phải hiểu rằng giáo dân muốn linh mục là người của Chúa Giêsu và đồng hóa với Người về lòng nhân ái và tinh thần phục vụ. Trong cuộc đời truyền đạo, Chúa Giêsu luôn gần gũi tiếp xúc với người ta và tìm cách làm ơn cho họ.


ĐỒNG BÀO CHÚNG TA THÍCH SỰ HÀO NHOÁNG VÀ HÌNH THỨC BÊN NGOÀI. NGƯỜI TA THÍCH VUI, THÍCH DỄ, THÍCH ỒN ÀO. VỀ ĐIỂM NÀY, PHẢI GIỮ CHỪNG MỰC. NẾU CHIỀU THEO KHUYNH HƯỚNG NÀY THÌ LINH MỤC CŨNG DỄ TRỞ THÀNH HỜI HỢT NÔNG CẠN.

Giáo dân cũng đợi chờ nơi linh mục đức tính này là dễ gặp, dễ nhờ. Vì đức tính này mà linh mục được định nghĩa rất sâu sắc và thâm thúy là con người “được ăn” hay “bị ăn” (Le prêtre est un homme mangé). Kiểu nói này là của một linh mục người Pháp, cha Chevrier, người lập ra Hội Linh mục Prado.

Nhiều linh mục ngày nay dành nhiều thời giờ cho mình mà ít cho giáo dân. Có linh mục làm lễ sáng xong là rút lui lên lầu, suốt ngày sống với máy vi tính và các thứ máy móc khác, hoặc đi vắng không mấy khi có mặt ở nhà, mọi việc giao cho văn phòng giáo xứ, khiến cho giáo dân nhiều người cần gặp mà không được.

Lại có những cha sở tuy gặp được, nhưng giáo dân rất sợ vì tính lạnh lùng và hay bẳn gắt. Bởi vậy, điều giáo dân đợi chờ nơi linh mục là họa lại hình ảnh Chúa Giêsu trong cách hành xử, nói năng và tiếp xúc.

Giáo dục đức tin trước khi xây cất cơ sở

Nói về việc linh mục thi hành đúng chức năng, Đức Giáo hoàng Ghê-go-ri-ô Cả có một bài giảng rất sâu sắc thấm thía. Đại ý ngài than phiền là có nhiều linh mục, nhưng rất ít linh mục chịu làm việc theo chức năng của mình hay có làm thì lại làm những việc ở bên ngoài chứ không phải việc bên trong. Việc chính yếu của linh mục là rao giảng lời Chúa, cử hành bí tích, giáo dục đức tin và lo phần rỗi cho các tín hữu. Những việc này phải làm trước rồi mới đến những việc khác như xây cất, mở mang cơ sở, hoạt động xã hội, phát triển dân sinh…

Ở Việt Nam, cha sở có một vị trí xã hội tốt, nói thì dân dễ nghe và người ta cũng hay nhờ thế cha sở để làm công kia việc nọ. Vì thế, cha sở cũng dễ bị cám dỗ trở thành một nhân vật ngoài đời để có thế ăn nói với người ta.

Điều này có thể đưa linh mục đi ra khỏi phạm vi chức vụ chính thức của mình. Linh mục không phải là quan. Vậy, phải coi chừng với tính thích làm quan tự nhiên của mình mà luôn nhớ rằng linh mục chính yếu là người phục vụ lời Chúa và Tin Mừng của Người.

Tuy nhiên, nếu linh mục chỉ biết có phòng thánh, nhà thờ và nhà xứ của mình thì cũng không đủ. Mà nếu chỉ lo những công việc ở bên ngoài phạm vi phòng thánh, nhà thờ, nhà xứ thì cũng không được nữa. Vậy phải theo một bậc thang giá trị mà dành ưu tiên cho những việc thuộc bổn phận linh mục. Mà bổn phận đó là làm lễ, giải tội, giảng thuyết, đi kẻ liệt, thăm viếng người nghèo khổ, ốm đau bệnh tật.

Một linh mục, nếu làm đầy đủ bổn phận của mình thì chẳng còn thời giờ rảnh rỗi bao nhiêu. Mà nếu có rảnh rỗi thì cũng nên dành thời giờ để học hành đọc sách vở thêm. Làm linh mục rồi nhưng vẫn còn phải học, ít là học cho biết viết bài giảng và giảng thế nào cho người ta nghe được.

Soạn và viết bài giảng là một trong những hy sinh hãm mình của linh mục bên cạnh việc giải tội và “đi kẻ liệt”. Thường sau khi làm linh mục rồi, ít ai còn thích hay tiếp tục làm việc tinh thần. Vì vậy, điều giáo dân đợi chờ nơi linh mục là lo cho có giờ để làm việc tinh thần mỗi ngày, ít là để soạn bài giảng, không dài quá, không chạy theo thời sự mà chú trọng vào ý nghĩa lời Chúa, không khuyên lơn hời hợt mà mở lối cho những áp dụng thiết thực, cũng không chiều theo thị hiếu của người nghe mà chú tâm vào việc giáo dục đức tin và đem lại cho người ta một cái gì có chất lượng. Muốn vậy phải tiếp tục học và tìm tòi suy nghĩ.

Tác phong đĩnh đạc

Giáo dân muốn linh mục có tác phong đĩnh đạc trong cách ăn mặc, nói năng, cư xử. Ngày nay linh mục thường ăn mặc như người đời. Ăn mặc như người ta có cái lợi là dễ hòa đồng, thoải mái, nhưng có cái bất lợi là có thể làm cho linh mục quên danh tính của mình mà không còn giữ gìn hay ít giữ gìn trong lời ăn tiếng nói, trong cách ăn mặc và cư xử với người ta nữa.

Tất nhiên, “cái áo không làm nên thầy tu”, nhưng thầy tu phải làm cho cái áo của mình có vẻ gì là tu chứ. Vì vậy, tuy ăn mặc như người đời, nhưng linh mục vẫn phải giữ cho mình cái cốt cách là linh mục. Cốt cách đó là phải ăn mặc đơn sơ xứng đáng với con người được học hành, có chữ nghĩa và có văn hóa, không chải chuốt quá đáng mà cũng không lôi thôi xoàng xĩnh trong cách ăn mặc, bừa bãi trong lối nói năng.

Nhiều giáo dân lấy làm ái ngại cho những linh mục áo quần luộm thuộm, đầu tóc bù xù, nói năng bừa bãi. Mới đây có dư luận cho rằng nhiều linh mục trẻ sau năm 1975 thiếu nhân bản trong cách hành xử. Dư luận này đáng cho các linh mục lưu ý vì có liên quan đến ảnh hưởng và uy tín của các vị trong vấn đề làm chứng cho Chúa và cho đạo.

Có những linh mục chỉ chơi với người giàu
Vật chất ở đây là tiền bạc, của cải, đất đai nhà ở, đồ dùng cá nhân. Các linh mục phần đông không để ý đến vấn đề này bao nhiêu, nhưng giáo dân rất để ý. Người ta vẫn thích những linh mục không lo làm giàu hay tìm kiếm cho mình hoặc bà con họ hàng mình của cải vật chất. Họ còn nể trọng những linh mục sống đơn sơ giản dị, không xa hoa trong cách ăn mặc và biết sử dụng bạc tiền một cách đích đáng. Ai mà chẳng muốn có một cái máy vi tính, một chiếc xe gắn máy tốt, một máy ảnh kỹ thuật số hảo hạng, một căn phòng đầy đủ tiện nghi, càng sang càng cho là có giá trước mặt người đời. Khuynh hướng này khá mạnh và hiện ra rõ nét nơi nhiều linh mục thuộc thế hệ mới.
Đó là kiểu cách tự nhiên theo thói đời. Nhưng linh mục là người đã chọn theo Chúa chứ không theo đời. Lý tưởng là thế nhưng thực tế lại không như vậy. Thành ra linh mục luôn ở trong thế giằng co căng thẳng. Có người hỏi tại sao ít người vào đạo Công giáo, trong khi đạo có tổ chức, kỷ luật, nhiều nhà thờ đẹp đẽ, nhiều cơ sở to lớn và các lễ nghi rất tưng bừng lôi cuốn. Chắc có nhiều lý do mà một trong lý do là tại giới linh mục chúng ta xa cách.
Chúng ta xa giáo dân và những người ngoài đạo, lại cách biệt nữa. Sự xa cách đó là do lối giao thiệp và đời sống của chúng ta. Về cách giao thiệp thì có thể vì chúng ta quá bận việc nên không có thời giờ và cơ hội tiếp xúc. Còn về đời sống thì chúng ta xa cách họ, vì dù sao, nói chung, đời sống của chúng ta vẫn cao hơn phần đông đời sống của họ. Vì thế, về phía chúng ta, xem ra chúng ta ít có dịp và ít có thời giờ; về phía họ, họ ngại và sợ gặp chúng ta. Thực ra, khi người ta không ở cùng một mức độ như nhau, thì cũng khó gặp gỡ và chuyện trò với nhau lắm, trừ ra khi hai bên đều cố gắng để xích lại gần nhau.
Về sự gặp gỡ, giáo dân muốn chúng ta để ý đến những người nghèo và ít học. Người ta đã phê bình và còn phê bình những linh mục nào chỉ chơi với người giàu và có học, còn người nghèo hay ít học, có đến gặp linh mục thì thường chỉ được tiếp đãi một cách hết sức qua loa hay lạnh nhạt.


LM ANRÊ ĐỖ XUÂN QUẾ, OP

Phục hồi sự vô tội

 “Tôi nói thật cho anh em biết, nếu không quay lại và trở thành như trẻ em, anh em sẽ không bao giờ được vào Nước Trời” (Mt 18,3).

Trình chơi Audio

Đặc điểm đầu tiên đánh động mọi người khi nhìn vào mắt một đứa trẻ là sự vô tội: vô tội vì thật đáng yêu khi không có khả năng nói dối hay đeo mặt nạ hoặc làm bộ là một nhân vật nào đó chứ không phải như sự thật của mình. Về điều này, trẻ em rất giống với thiên nhiên.

Chó là chó, hoa hồng là hoa hồng, ngôi sao là ngôi sao: vạn vật ra sao thì cứ như vậy.

Chỉ có người lớn mới có khả năng vừa là thế này vừa làm bộ thế khác.

1. Khi người lớn phạt trẻ con vì đã nói thật, vì đã cho biết cách thẳng thắn những gì nó nghĩ nó cảm   thấy,  người ta đã vô tình dạy trẻ con dấu diếm và thế là đã phá vỡ sự đơn sơ vô tội của nó.

Rồi chẳng bao lâu sau, nó sẽ lọt vào hàng ngũ của vô số người phải tuyệt vọng thốt lên: ‘Rốt cuộc tôi chẳng biết mình là ai cả’, vì đã che dấu sự thật của mình với người khác quá lâu, đến nỗi sau cùng chính mình cũng chẳng biết sự thật của mình.

Bạn còn giữ bao nhiêu phần trăm sự vô tội ấy của tuổi thơ? Hiện nay, có ai mà khi đứng trước mặt người ấy bạn hoàn toàn là mình, cởi mở và vô tội như một đứa trẻ?

2. Còn một cách khác tinh tế hơn sẽ làm mất sự vô tội của tuổi thơ, đó là khi đứa trẻ bị nhiễm tham vọng muốn trở thành một nhân vật nào đó.

Hãy xem hàng hàng lớp lớp những người đang ra sức trở thành một nhân vật nào đó, thay vì trở thành những gì thiên nhiên đã định cho mình như làm nhạc, nấu nướng, sửa máy, đóng bàn ghế, làm vườn, sáng chế. Người ta ra sức làm sao cho mình thành công, nổi tiếng, có quyền lực; trở thành một điều gì đó không làm cho mình được hoàn thành bản thân trong âm thầm lặng lẽ, mà trở thành một điều gì đó có thể giúp mình được vẻ vang, được bành trướng. Hãy nhìn những người đã đánh mất sự vô tội chỉ vì đã không chọn để trở thành chính mình, mà muốn mình được thăng quan tiến chức, được tỏ ra mình là một điều gì đó, dù chỉ là trong mắt nhìn.

Hãy nhìn vào đời sống thường ngày của mình. Bạn thấy có suy nghĩ nào, lời nói nào hay hành động nào của mình mà không mang dấu vết của lòng khao khát muốn trở thành một nhân vật nào đó, cho dù nhân vật ấy có thể chỉ là một nhà tu đức thành công hay một vị thánh vô danh tiểu tốt?

Trẻ em, giống như các loài vật vô tội, phó mình hoàn toàn cho tự nhiên để thiên nhiên đã định cho mình thế nào thì mình trở thành thế ấy.

Người lớn nào còn giữ được sự vô tội cũng đều buông mình cho thiên nhiên hay cho định mệnh đưa đẩy, không hề có ý định trở thành một ai đó hay gây ấn tượng trên người khác. Chỉ có điều khác là: người lớn làm như vậy không dựa vào bản năng tự nhiên, như trẻ con, mà dựa vào sự tỉnh ngộ liên tục về tất cả mọi sự đang diễn ra nơi mình và chung quanh mình. Nhờ sự tỉnh ngộ ấy họ tránh được các điều xấu và lớn lên theo như thiên nhiên đã trù định, chứ không theo kế hoạch của những cái tôi đầy tham vọng.

3. Còn một cách nữa người lớn làm mất sự vô tội của tuổi thơ: đó là dạy chúng phải bắt chước ai đó. Khi bắt một đứa trẻ trở thành bản sao của ai đó, là bạn đã dập tắt cái tia sáng độc đáo đã đi theo đứa trẻ khi nó chào đời. Khi bạn quyết định rở thành một ai đó, bất kể có vĩ đại và thánh thiện hay không, là bạn đã làm hỏng con người mình.

Thử nghĩ tới ánh lửa độc đáo trong lòng mình, đã bị chôn vùi dưới bao nhiêu lớp sợ hãi. Sợ mình sẽ bị chê cười hay bị khai trừ bởi đã dám sống trung thực với mình, không chịu máy móc khuôn theo cách ăn mặc, hành động, nghĩ suy của nhiều người. Bạn đã từng uốn mình theo người khác không chỉ trong hành vi và tư tưởng, mà cả trong những phản ứng, những cảm xúc, những thái độ và những giá trị. Bạn không dám bứt ra khỏi tình trạng hư hỏng ấy, không dám đòi lại sự vô tội nguyên thuỷ của mình. Đây chính là cái giá bạn phải trả để được xã hội và tổ chức của mình đón nhận. Nhưng như thế là bạn đã bước vào thế giới của những người luồn cúi, những người bị kiểm soát; là đã bị lưu đày ra khỏi vương quốc chỉ dành cho những ai vô tội như trẻ thơ.

4. Một cách nữa rất tinh vi có thể làm mất đi sự vô tội của bạn là ưa ganh đua và so sánh với người khác. Khi làm như thế, là bạn đã đánh đổi sự đơn sơ của mình để lấy tham vọng muốn như một ai đó hoặc hơn một ai đó.

Sở dĩ trẻ em có thể giữ được sự vô tội của mình và sống như bao thụ tạo khác trong hạnh phúc Nước Trời, ấy là vì nó không bị hút vào cái mà chúng ta gọi là thế gian – là nơi tăm tối của người lớn, trong đó người ta không dành thời gian để sống mà là để tìm lời khen và sự ngưỡng mộ, không dành thời gian để sống trung thực với mình cách vui vẻ mà là để so sánh và ganh đua tới mức điên cuồng, để chạy theo những điều trống rỗng mang tên là thành công và danh tiếng, dù đôi khi phải trả giá đắt tới mức đánh gục, làm nhục và tiêu diệt người thân cận mình.

5. Nếu cho mình nếm cảm thực sự những đau khổ của địa ngục trần gian ấy và sự trống  rỗng do địa ngục trần gian ấy mang tới, có thể bạn sẽ thấy lòng mình như muốn nổi loạn, lòng mình chán ngán tới mức bạn muốn phá tan mọi xích xiềng của lệ thuộc và lừa phỉnh đã từng quấn quanh tâm hồn bạn, để được bước vào vương quốc của sự vô tội – nơi đó có các trẻ thơ và các nhà thần bí.

Tác giả: Anthony de Mello, S.J.
Dịch giả: Lm. Phêrô Đặng Xuân Thành
Trích sách: Tiếng gọi yêu thương


Nguồn: https://dongten.net/2020/08/24/phuc-hoi-su-vo-toi/

Thứ Bảy, 22 tháng 8, 2020

Tin Mừng Chúa nhật 21 thường niên - Năm A


PHÚC ÂM: Mt 16, 13-20
“Con là Đá, Thầy sẽ ban cho con chìa khoá nước trời”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu đến địa hạt thành Xêsarêa Philipphê, và hỏi các môn đệ rằng: “Người ta bảo Con Người là ai?” Các ông thưa: “Người thì bảo là Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là Êlia, kẻ khác lại bảo là Giêrêmia hay một tiên tri nào đó”. Chúa Giêsu nói với các ông: “Phần các con, các con bảo Thầy là ai?” Simon Phêrô thưa rằng: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Chúa Giêsu trả lời rằng: “Hỡi Simon con ông Giona, con có phúc, vì chẳng phải xác thịt hay máu huyết mạc khải cho con, nhưng là Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Vậy Thầy bảo cho con biết: Con là Đá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và cửa địa ngục sẽ không thắng được. Thầy sẽ trao cho con chìa khoá nước trời: sự gì con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc; và sự gì con cởi mở dưới đất, trên trời cũng cởi mở”. Bấy giờ Người truyền cho các môn đệ đừng nói với ai rằng Người là Đức Kitô.

Kể từ đó, Chúa Giêsu bắt đầu tỏ cho các môn đệ thấy: Người sẽ phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ bởi các kỳ lão, luật sĩ và thượng tế, phải bị giết, và ngày thứ ba thì sống lại. Phêrô kéo Người lại mà can gián Người rằng: “Lạy Thầy, xin Chúa giúp Thầy khỏi điều đó. Thầy chẳng phải như vậy đâu”. Nhưng Người quay lại bảo Phêrô rằng: “Hỡi Satan, hãy lui ra đàng sau Thầy, con làm cho Thầy vấp phạm, vì con chẳng hiểu biết những sự thuộc về Thiên Chúa, mà chỉ hiểu biết những sự thuộc về loài người”.

Thứ Sáu, 21 tháng 8, 2020

Thông báo về hoạt động của Huynh đoàn Thánh Phêrô


TOÀ TỔNG GIÁM MỤC

180 Nguyễn Đình Chiểu - Quận 3
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
( (84.28) 3930 3828
Email: tgmsaigon@gmail.com
Số: 257.3_200821_01

Ngày 21 tháng 8 năm 2020

THÔNG BÁO

Về hoạt động của Huynh đoàn Thánh Phêrô

Kính gửi: Quý Cha, quý Tu sĩ nam nữ
và anh chị em giáo dân trong Tổng giáo phận


Thời gian vừa qua, Tòa Tổng giám mục nhận được một số thư trình báo và thắc mắc liên quan đến các hoạt động của Huynh đoàn Linh mục Thánh Phêrô tại Tổng giáo phận Sài Gòn - TP. HCM, do linh mục Laurent Demets làm tuyên úy. Gần đây nhất, có thông tin về “Sắc lệnh thành lập Cộng đoàn Huynh đoàn Thánh Phêrô tại Tổng giáo phận Sài Gòn” đang được phổ biến. Tòa Tổng giám mục xin thông báo:

1. Sắc lệnh nói trên là hoàn toàn giả mạo. Tòa Tổng giám mục chưa ban hành một văn bản nào liên quan đến Huynh đoàn Thánh Phêrô.

2. Về phụng vụ thánh lễ ngoại thường (tiếng Latinh) mà các linh mục thuộc Huynh đoàn này quảng bá: vì là ngoại thường, Đức Tổng Giuse chỉ cho phép linh mục Laurent Demets cử hành riêng tư mà thôi, không được cử hành tại nhà thờ giáo xứ, và không mời gọi giáo dân tham dự.

3. Linh mục Laurent Demets cũng chưa được Bản quyền Giáo phận ban cho bất cứ năng quyền nào trên các tín hữu thuộc quyền.

4. Trong Tổng giáo phận, các giáo xứ hay cộng đoàn chỉ được cử hành phụng vụ theo nghi thức canh tân do Bộ Phụng tự ban hành và theo các bản văn được Hội đồng Giám mục Việt Nam chấp thuận.

Xin quý cha giải thích giúp các tín hữu luôn yêu mến và hiệp thông trong Giáo hội qua các cử hành phụng vụ của cộng đoàn.

TL. Đức Tổng Giám Mục
Lm. Chưởng Ấn
(đã ký)
Phêrô Kiều Công Tùng

Nhà thờ đầu tiên ở Ukraina được dâng kính Thánh Gioan Bosco

SALESIANI.jpg

Ngày 16/8/2020, các tu sĩ Dòng Salêdiêng đã tổ chức kỷ niệm 205 năm ngày sinh Đấng sáng lập, Thánh Gioan Bosco. Việc cử hành càng thêm long trọng và ý nghĩa vì lần đầu tiên tại Ukraina một Nhà thờ được dâng kính Thánh Gioan Bosco.

Các tu sĩ Salêdiêng bày tỏ niềm vui trước sự kiện này: “Đây là một sự kiện rất ý nghĩa. Chúng tôi rất vui bởi vì với việc dâng kính này phương pháp sư phạm của Thánh Bosco và hệ thống giáo dục giới trẻ của ngài sẽ được phổ biến hơn trong xã hội Ukraina. Điều này cho thấy đất nước mong muốn một tương lai tốt hơn cho thiếu nhi và giới trẻ”.

Nhà thờ mới nằm ở Korostiv, thuộc tỉnh Scole, miền tây Ukraina, và được xây dựng bên cạnh Trung tâm Salêdiêng “Domenico Savio”, thường được dành cho các buổi tĩnh tâm.

Trong Thánh lễ, ngoài các đại diện Dòng Salêdiêng ở Ukraina, còn có các đại diện chính quyền và người dân địa phương. Các tu sĩ cho biết do đại dịch virus corona, số người tham dự Thánh lễ phải hạn chế. Tuy nhiên, một tập tài liệu thông tin về cuộc đời và sứ mạng của vị thánh người Ý đã được các tu sĩ chuẩn bị, để đặc sủng của ngài ngày càng được biết đến ở Ukraina.

Cần nhấn mạnh rằng trong trường hợp khẩn cấp sức khỏe do Covid-19, Dòng Salêdiêng ở Ukraina đã xúc tiến nhiều dự án xã hội nhằm tăng cường các biện pháp phòng chống lây nhiễm virus. Đặc biệt, tại Lviv, Giáo xứ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp và Trung tâm giới trẻ Salêdiêng đã bắt đầu làm khẩu trang và khăn trải giường, trao tặng cho bệnh viện.

Ngoài ra, nhiều gói thực phẩm đã được phân phát cho những người khó khăn, nghèo khổ và neo đơn nhất. Trong mùa Phục sinh, tiệm bánh mì xã hội của Hội dòng đã chuẩn bị bánh truyền thống hình chim bồ câu cho những người lính phục vụ ở miền đông Ukraina. Sau cùng, những người trẻ đã được đồng hành thiêng liêng qua các “nguyện xá trực tuyến” trên mạng xã hội. (CSR_6029_2020)

ĐHY Suharyo kêu gọi chống tham nhũng, bao lực và biến đổi khí hậu ở Indonesia

1597639211126.jpg

Ngày 17/8, Indonesia kỷ niệm quốc khánh lần thứ 75. Nhân dịp này, Đức Hồng y Ignatius Suharyo Hardjoatmodjo, Tổng Giám mục Jakarta mời gọi mọi người cùng làm việc chống tham nhũng, bạo lực và biến đổi khí hậu, những điều đang gây tổn hại đất nước.

Đức Hồng y khẳng định: “Các lý tưởng của quốc gia: thống nhất, chủ quyền, công bằng và thịnh vượng vẫn được người dân ủng hộ, nhưng nó luôn bị đe dọa từ các vụ tham nhũng, bất ổn chính trị, tính bất bao dung và khủng bố của các nhóm Hồi giáo”.

Đức Hồng y nhận định rằng các mối đe dọa này tăng dần từ năm này sang năm khác. Vì thế, đối với Tổng Giám mục Jakarta, kỷ niệm quốc khánh không chỉ là một buổi lễ, nhưng phải là một lời nhắc nhở về “trách nhiệm của mọi người trong việc xây dựng công ích”. Đức Hồng y nói thêm, “trách nhiệm này cũng chất vấn người Công giáo, những người được kêu gọi làm việc cho công bằng xã hội và thúc đẩy các lý tưởng Dân tộc trong chính gia đình, cộng đoàn, giáo xứ”.

Đồng thuận với tư tưởng trên của Đức Hồng y, ông Vincentius Hargo Mandirahardjo, Chủ tịch Hiệp hội Tri thức Công giáo Indonesia, nói: “Vì sự tiến bộ của đất nước, chúng ta, những công dân của đất nước phải có trách nhiệm vượt qua những thách đố này”.

Theo cha Francis Xavier Mudji Sutrisno, giảng viên tại trường Driyarkara ở Jakarta, ba vấn đề xã hội được Đức Hồng y chỉ ra phải được chính phủ ưu tiên. Cha nói: “Cần phải áp dụng luật đúng để khắc phục nạn tham nhũng, bạo lực và những hành động phá hủy môi trường. Nếu luật không được áp dụng đúng, những vấn đề này không bao giờ được giải quyết”.

Từng là thuộc địa của Hà Lan, Indonesia đã giành được độc lập có hiệu lực vào năm 1949. Tuy nhiên, một số phong trào đòi độc lập vẫn đang hoạt động trong nước và có những điểm hiện đang căng thẳng, đặc biệt ở tỉnh Papua, nơi người dân địa phương cho rằng họ bị chính phủ phân biệt đối xử. Những căng thẳng này đã tạo ra mảnh đất màu mỡ cho sự xuất hiện của các nhóm Hồi giáo và các mạng lưới khủng bố, gây nhiều cuộc tấn công đẫm máu trong những năm gần đây. Tình hình đất nước càng thêm bất ổn do hiện đang gặp các vấn đề môi trường, đặc biệt liên quan đến nạn phá rừng lớn trên quần đảo, nơi rừng nhiệt đới lớn thứ ba trên thế giới phải nhường chỗ cho việc sản xuất các nguyên liệu thô như dầu cọ ngày càng tăng. (CSR_5994_2020)

7 nguyên nhân làm cho các mối tương quan của bạn có nguy cơ đổ vỡ

Tại sao một tương quan bạn bè bị mất đi? Làm sao mà những mối dây gắn kết bền chặt với người khác trở nên không còn nữa? Hãy cùng xem xét xem bạn có rơi vào các nguyên nhân sau đây không:

 

  1. Làm biếng

Để có mối tương quan tốt, người ta phải ra khỏi chính mình. Phải lăn mình để đi gặp gỡ chuyện trò với người khác. Nếu chúng ta lười nhác, lúc nào cũng tìm cớ để trì hoãn hay không muốn gặp mặt, sớm muộn gì những tương quan bạn bè hay hẹn hò cũng sẽ đi đến hồi kết. Suốt ngày ngồi trên ghế sofa ở nhà, đắm chìm những thú vui lệch lạc. Sự lười biếng thể lý sẽ dẫn đến lười biếng tri thức. Thế rồi, ta mải mê với những trò chơi điện tử, những thước phim ngắn hay dài tập.

Hãy bớt thời gian trước màn hình lại và ưu tiên lên kế hoạch gặp gỡ bạn bè và gia đình thì hơn!

 

  1. Hay chỉ trích

Lúc nào cũng có những bình luận tiêu cực sẽ làm cho chúng ta xa cách người khác. Dù chúng là những bình luận về chuyện có thực, nhưng nếu nó không nhắm đến việc giúp đỡ người khác, nó cũng tạo ra khoảng cách giữa chúng ta. Nếu nó chỉ là những điều bịa đặt (ví dụ, từ những tin đồn thất thiệt), nó sẽ biến chúng ta thành những kẻ bất trung. Chẳng ai muốn làm bạn người bất trung cả.

Do đó, nếu có điều gì đó liên quan đến người khác, bạn hãy chia sẻ với họ với tấm lòng cao thượng. Việc sửa lỗi sẽ có tác dụng tốt nếu nó được thực thi với ý hướng ngay lành. Nên tìm một thời điểm thuận lợi: đôi khi nó cũng đòi chúng ta phải rất kiên nhẫn để không bỏ lỡ thời cơ khi nó đến.

 

  1. Thời gian

Bạn có dành thời gian cho các mối tương quan của bạn không? Không phải chỉ là qua whatsapp hay những tin nhắn nhanh, cần phải hiện diện với người khác, thích thú trò chuyện, chia sẻ qua lại, sao cho hai bên biết nhau nhiều hơn nữa. Trong các mối tương quan, cần phải có sự quảng đại trong nhiều phương diện như: giúp đỡ nhau (vốn tốn khá nhiều giờ của mình), đồng hành, lắng nghe, gặp gỡ thăm viếng nhau. Bạn có sẵn sàng mất giờ cho người khác không?

 

  1. Thành kiến

Những thành kiến là rào cản gây khó khăn cho việc bắt đầu một tương quan tình bạn. Không thể nào có được sự thân ái và tôn trọng nếu vẫn còn những thành kiến. Có những thành kiến tạo ra bởi vấn đề xã hội, dân tộc thiểu số hay tôn giáo khiến mình không thể tạo lập tình bạn với đồng nghiệp, hàng xóng hay người thân trong gia đình.

Có thành kiến nào dành cho người khác đang ngăn cản bạn không? Hãy chia sẻ với người đó hoặc tìm nhiều thông tin hơn liên quan đến vấn đề này. Đừng phán xét họ nhưng hãy để ý đến cung cách hành xử và lời nói của họ. Đừng để mình bị chế ngự bởi những phong trào trên mạng xã hội, nhưng chính mình phải biết kiểm chứng mọi thứ.

 

  1. Im lặng

Khi người nào đó làm phiền mình nhưng mình chẳng nói gì, kiểu im lặng này có thể làm mình xa cách người khác. Nó có thể là một kiểu lãnh đạm hay coi thường.

Kiểu im lặng như thế cũng có thể làm nảy sinh trong lòng chúng ta rất nhiều càm ràm, những thứ tiêu cực mà mình chẳng thể bỏ qua được.

Để vượt qua được nó, chúng ta phải đối diện với vấn đề, chia sẻ nó với người ta vào dịp thuận lợi và giải quyết những xung khắc. Hãy khai thông mọi tình huống.

 

  1. Hời hợt

Một tương quan mà chỉ là “quen biết” thì không cần hy vọng gì nơi người khác. Nhưng nếu chúng ta muốn thiết lập tình bạn, mà chỉ gặp nhau vào các dịp lễ, làm cốc bia trong nhóm hay chỉ chào hỏi vào các buổi gặp mặt thì không đủ. Thậm chí chúng ta có thể lập kế hoạch đi chơi với “đám bạn” nhưng nó thật ra vẫn còn thiếu.

Bạn có thật sự hiểu biết đủ về bạn của mình? Ngoài những lúc vui cười và giỡn đùa với nhau, bạn có biết ước mơ của họ hay điều mà họ bận tâm? Họ có là một phần của cuộc sống bạn và bạn có là một phần của họ không? Bạn có mở lòng để họ biết về bạn nhiều hơn không? Khi gặp chuyện nghiêm trọng, hai bên có chia sẻ cho nhau biết không?

Hãy ra khỏi sự hời hợt và cố gắng trò chuyện ở mức độ sâu sắc hơn, nó sẽ giúp các bạn thêm tin tưởng nhau.

 

  1. Ích kỷ

Bạn muốn duy trì tương quan này vì nó có lợi cho bạn? Bạn lúc nào cũng nghĩ về mình trước hết? Bạn tìm kiếm trong tương quan này (tình bạn hay tình yêu) chỉ là một lợi ích kinh tế, xã hội hay tình cảm? Bạn thật ích kỷ nếu chỉ luôn tìm kiếm sự thoải mái cho mình, hay chỉ làm điều bạn thích, hoặc khi bạn không để cho người khác nói, hoặc khi bạn không quan tâm gì đến ý kiến hay điều họ ưa thích.

Làm sao bỏ được sự ích kỷ này? Hãy nghĩ đến người khác: họ thích gì, họ có sáng kiến gì, bạn có thể làm gì cho họ.

 

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ

(Theo: https://es.aleteia.org/2020/02/18/las-7-causas-que-ponen-en-peligro-nuestras-relaciones/2/

Nguồn: https://dongten.net/2020/08/18/7-nguyen-nhan-lam-cho-cac-moi-tuong-quan-cua-ban-co-nguy-co-do-vo/

Thứ Tư, 19 tháng 8, 2020

Nhãn quan Giáo hội về giới trẻ trong thế giới hôm nay


NHÃN QUAN GIÁO HỘI VỀ GIỚI TRẺ TRONG THẾ GIỚI HÔM NAY

Giám mục Phêrô Nguyễn Văn Viên

WHĐ (18.8.2020) – Trong Tông huấn Đức Kitô Đang Sống (Christus Vivit, 2019), Đức Thánh Cha Phanxicô viết: “Điều quan trọng là cần phải nhận thức rằng Đức Giêsu là một người trẻ. Người đã hiến dâng mạng sống mình khi Người là, theo ngôn ngữ của thời đại hôm nay, người trưởng thành trẻ” (Christus Vivit 23). Là Thân Thể Mầu Nhiệm Đức Giêsu Kitô, Đấng Trẻ Trung Muôn Đời, Giáo hội luôn là Giáo hội trẻ và là Bạn của các bạn trẻ. Giáo hội ý thức rằng việc đồng hành và mục vụ giới trẻ cách hữu hiệu sẽ giúp họ ngày càng trưởng thành hơn về mọi mặt, hầu đóng góp phần mình trong việc diễn tả căn tính, đời sống và sứ mệnh của Giáo hội giữa dòng đời.

Trong phạm vi toàn cầu, theo các thống kê gần đây, khoảng một phần tư dân số thế giới là người trẻ. Nhận thức về tầm quan trọng của giới trẻ trong đời sống Giáo hội và xã hội, Đức Thánh Cha Phanxicô đã tổ chức Thượng Hội đồng Giám mục Thế giới về Giới trẻ, từ ngày 3-28/10/2018, với chủ đề “Giới trẻ, đức tin và việc phân định ơn gọi”. Vào đầu năm 2019, Đại hội Giới trẻ Thế giới lần thứ XVI diễn ra tại Panama, từ ngày 22-27/1/2019. Theo tinh thần của Thượng Hội đồng Giám mục Thế giới về Giới trẻ và Đại hội Giới trẻ Thế giới diễn ra tại Panama, cùng với những thao thức về vai trò của giới trẻ trong Giáo hội, ngày 25/3/2019, Đức Thánh Cha Phanxicô đã ban hành Tông huấn Đức Kitô Đang Sống.

Tại kỳ họp lần thứ nhất diễn ra từ ngày 22-27/4/2019 ở Bãi Dâu, giáo phận Bà Rịa, Hội đồng Giám mục Việt Nam đã thống nhất về chương trình mục vụ của Giáo Hội Việt Nam trong ba năm (2019- 2022) là “Mục vụ giới trẻ”. Chương trình mục vụ này vừa tiếp nối chương trình “Mục vụ gia đình” mà Giáo hội Việt Nam đã thực hiện trong ba năm (2016-2019), vừa phù hợp với nhãn quan Giáo Hội hoàn vũ về giới trẻ. Đặc biệt, chương trình mục vụ này phù hợp với tinh thần của Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế giới về Giới trẻ năm 2018, cũng như của Đức Thánh Cha Phanxicô về giới trẻ.

Chủ đề bài viết “Nhãn Quan Giáo hội về Giới trẻ trong Thế giới hôm nay liên quan đến nhiều lãnh vực và khía cạnh khác nhau trong đời sống Giáo hội: từ nền tảng Kinh Thánh đến suy tư thần học, từ lịch sử Giáo hội tới bối cảnh hiện tại, từ nội dung giáo lý đến việc triển khai giáo lý, từ những dấu chỉ thời đại đến việc đọc những dấu chỉ đó và đưa ra đường hướng mục vụ phù hợp. Nội dung bài viết này chỉ đề cập cách tổng quát nhãn quan Giáo hội về giới trẻ theo những đề mục sau đây:(1) Trở về nguồn, (2) Đọc dấu chỉ, (3) Đường Emmau và (4) Hướng mục vụ.

1. Trở về nguồn

Ngày 26/01/2019, tại Đại hội Giới trẻ Thế giới lần thứ XVI, Đức Thánh Cha Phanxicô nói: “Chúng ta không thể lớn lên nếu chúng ta không có gốc rễ khỏe mạnh nâng đỡ và giúp chúng ta đứng vững. Thật dễ dàng bị trôi dạt khi không có gì để bám víu, hỗ trợ”. Mặc khải Kinh Thánh cho chúng ta bức tranh muôn màu về những người trẻ trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Chúng ta học được những bài học hữu ích từ những người trẻ sống ngược với giới răn và huấn lệnh của Thiên Chúa, chẳng hạn như Cain, Êxau, Ghítôn, Rơkhápam, Ápsalôm, và các con cái của Êli. Nhưng, hơn thế, chúng ta học được những kinh nghiệm quý báu từ những người trẻ vâng theo thánh ý Thiên Chúa và cộng tác đắc lực vào chương trình cứu độ của Người, chẳng hạn như Nôê, Ápraham, Giuse, Môsê, Giôsuê, Samuen, Đavít, Samson, Gióp, Rút, Étte, Giêrêmia và các tiên tri khác.

Nhiều trình thuật Kinh Thánh Cựu Ước, đặc biệt trong nền Văn Chương Khôn Ngoan, cho chúng ta biết cách thức nào giúp người trẻ có thể trở nên khí cụ tốt lành theo thánh ý Thiên Chúa. Chẳng hạn như giúp người trẻ sống đời thanh khiết: Làm thế nào giữ được tuổi xuân trong trắng? Thưa phải tuân theo lời Chúa dạy” (Tv 119,9); giúp người trẻ trung tín: “Vì lạy Chúa, chính Ngài là Đấng con trông đợi, lạy Đức Chúa, chính Ngài là Đấng con tin tưởng ngay từ độ thanh xuân” (Tv 71,5); giúp người trẻ trưởng thành trong tương quan với Thiên Chúa và tha nhân: “Cậu bé Samuen thì càng lớn lên và đẹp lòng cả Đức Chúa lẫn người ta” (1 Sm 2,26). Một trường hợp khác nói rõ cách giúp người trẻ đón nhận, sống và chuyển tải gia sản tinh thần của tổ tiên: “Năm thứ tám triều đại của Giôsigiahu, lúc còn là một thanh niên, vua bắt đầu tìm kiếm Thiên Chúa của vua Đavít, tổ tiên vua; và năm thứ mười hai, vua bắt đầu thanh tẩy xứ Giuđa và thành Giêrusalem, loại ra khỏi đó các tế đàn, các cột thờ, các tượng tạc tượng đúc” (2 Sbn 34,3).

Nhiều khuôn mặt trẻ trong Kinh Thánh Tân Ước đáng chúng ta đề cập tới, chẳng hạn như Đức Maria, thánh Giuse, các thánh tông đồ. Tuy nhiên, khuôn mặt trẻ đáng để chúng ta quan tâm nhất là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa. Trong Tông Huấn Đức Kitô Đang Sống, Đức Thánh Cha Phanxicô viết: “Đức Giêsu, Đấng trẻ trung muôn đời, muốn ban cho chúng ta những trái tim trẻ mãi. Lời Chúa nhắc nhở chúng ta “hãy loại bỏ men cũ để trở thành bột mới” (1 Cr 5,7). Thánh Phaolô mời gọi chúng ta hãy cởi bỏ “con người cũ” và mặc lấy con người “trẻ” [mới] (Cl 3,9-10)(Christus Vivit 13). Ngài viết tiếp: “Trẻ trung đích thực có nghĩa rằng có trái tim với khả năng yêu thương, trong khi những gì tách biệt chúng ta khỏi người khác làm cho tâm hồn già cỗi” (Christus Vivit 13). Đồng thời, Đức Thánh Cha Phanxicô cũng nhận định rất đúng đắn, sâu sắc và ý nghĩa: “Trẻ không đơn giản chỉ về một khoảng thời gian; nó là tình trạng của tâm trí” (Christus Vivit 34).

Kinh Thánh Tân Ước không cho chúng ta biết nhiều về “thời tuổi trẻ” của Đức Giêsu, ngoại trừ vài sự kiện vào thời thơ ấu và năm Người 12 tuổi. Thánh ký Luca cho chúng ta biết lúc 12 tuổi, Đức Giêsu cùng cha mẹ lên Giêrusalem. Xong kỳ lễ hai ông bà trở về mà không biết Người đang lưu lại Giêrusalem. Sau ba ngày họ tìm được Người trong Đền Thờ, lúc đó Người đang ngồi giữa các thầy dạy để lắng nghe, đặt câu hỏi và giải thích cho họ về những vấn đề cốt lõi trong đời sống tôn giáo, văn hóa và xã hội Do Thái. Khi Đức Maria nói với Đức Giêsu về chuyện vất vả tìm Người, Đức Giêsu trả lời: “Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?” (Lc 2,49). Thánh Luca viết tiếp: “Sau đó, Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Nadarét và hằng vâng phục các ngài. Riêng mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng. Còn Đức Giêsu ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta” (Lc 2,51-52). Sự trưởng thành của Đức Giêsu về thể lý đi đôi với sự trưởng thành về tâm linh, cũng như các chiều kích và tương quan khác trong xã hội Do Thái tại gia đình và thôn xóm ở Nadarét, quê hương Người.

Đức Giêsu là con bác thợ mộc và Người cũng học để trở thành người thợ mộc chính hiệu. Với đôi tay của người thợ mộc lành nghề, những khúc gỗ được định dạng và trở thành những phương tiện sống động gắn bó với con người, làm cho con người sống hòa hợp và xứng đáng hơn trong môi trường thế giới thụ tạo. Với kinh nghiệm của người thợ mộc, Đức Giêsu đã đào tạo các môn đệ, chuẩn bị cho họ những hành trang cần thiết, để chính họ sẽ tiếp tục sứ mệnh của Người ở trần gian. Người đã định hình, gọt dũa, trau dồi và biến các môn đệ mình từ những người trẻ đơn sơ mộc mạc thành những cột trụ của Giáo Hội mà Người thiết lập.

Đức Giêsu đã trở thành gương mẫu cho những người trẻ trong việc lắng nghe, tin tưởng, vâng phục và trung thành với thánh ý Thiên Chúa. Là những người trẻ, theo Đức Giêsu, các môn đệ đã hăng hái làm chứng cho Người và Tin Mừng của Người. Hơn nữa, trên đường rao giảng Tin Mừng, các môn đệ Đức Giêsu đã tuyển chọn những người trẻ đầy Thánh Thần, đầy nhiệt huyết và khôn ngoan để cộng tác với họ. Chẳng hạn như thánh Phê-rô đã chọn người trẻ Máccô làm người cộng sự với ngài trong công cuộc loan báo Tin Mừng (1 Pr 5,13). Thánh Phaolô đã chọn người trẻ đồng hành là Timôthê. Ngài nhắc nhở Timôthê: “Anh hãy tránh xa các đam mê của tuổi trẻ, cố gắng trở nên người công chính, giàu lòng tin và lòng mến, ăn ở thuận hoà cùng những ai kêu cầu Chúa với tấm lòng trong sạch” (2 Tm 2,22). Ngài cũng khích lệ Timôthê: “Chớ gì đừng có ai coi thường anh vì anh còn trẻ. Trái lại, anh hãy nên gương mẫu cho các tín hữu về lời ăn tiếng nói, về cách cư xử, về đức ái, đức tin và lòng trong sạch” (1 Tm 4,12).

Tiếp nối truyền thống Kinh Thánh Cựu Ước và Tân Ước, ngay từ rất sớm các giáo phụ quan tâm đến những người trẻ trong Giáo Hội. Chẳng hạn như thánh Irênê (130–202) diễn tả Đức Giêsu là người trẻ giữa những người trẻ và tôn vinh Người là mẫu gương lý tưởng cho những người trẻ trong Giáo hội qua muôn thế hệ. Thánh nhân viết rằng Đức Giêsu là ”một người trẻ giữa những người trẻ, trở thành mẫu gương cho họ và vì vậy thánh hiến họ cho Đức Chúa” (Chống Lạc Giáo, II, 22, 4). Trong lịch sử Giáo hội, noi gương Đức Giêsu, nhiều người trẻ đã góp phần rất quan trọng trong việc làm chứng cho Tin Mừng của Người bằng đời sống thánh thiện, hy sinh, tận hiến, như thánh Pêpêtua, thánh Annê, thánh Luxia, thánh Maria Gôrétti, thánh Đa Minh (Đôminicô Saviô), thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu. Nhờ các ngài, Giáo hội luôn diễn tả mình là thực thể trẻ trung và can trường giữa muôn vàn gian khổ, khó khăn, bấp bênh của thế sự.

Giáo hội khai nguyên từ biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống (Cv 2,1-12). Giáo hội luôn là Giáo hội trẻ, bởi vì Giáo hội không ngừng được Chúa Thánh Thần biến đổi, làm cho mới mẻ và sống động, để ngày càng xứng đáng hơn với phẩm vị là Hiền Thê của Đức Kitô, hầu thực thi chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Trong Sứ Điệp gửi các bạn trẻ khi kết thúc Công đồng Vatican II (ngày 8 tháng 12 năm 1965), các Nghị Phụ nhấn mạnh: ”Giáo hội không ngừng đổi mới hình ảnh của mình để ngày càng diễn tả tốt hơn chương trình của Đấng Thiết Lập Giáo hội, Đấng Hằng Sống, Đức Kitô, Đấng luôn luôn trẻ trung.” Đồng thời, các ngài thổ lộ tâm tình với các bạn trẻ: “Nhân danh Thiên Chúa, và Con của Người là Đức Giêsu Kitô, chúng tôi mời gọi các bạn hãy mở tâm hồn mình ra với mọi hoàn cảnh của thế giới này, để lắng nghe lời khẩn khoản của anh chị em mình và phục vụ họ bằng chính năng lực trẻ của các bạn.” Quả thật, từ Công đồng Vatican II đến nay, Giáo hội ngày càng nhận thức rõ hơn vai trò và tầm quan trọng của các bạn trẻ trong đời sống và sứ mệnh của mình.

Giáo hội là thực thể luôn tươi trẻ giữa lòng thế giới, bởi vì Giáo hội là bí tích của Đức Kitô, là hiện thân của Người, Đấng trẻ trung muôn đời, Đấng vẫn là một, hôm qua cũng như hôm nay và như vậy mãi tới muôn đời (Dt 13,8).Các Nghị Phụ của Công đồng Vatican II nhắn nhủ các bạn trẻ: “Hãy ngắm nhìn Giáo hội và các bạn sẽ thấy khuôn mặt Đức Kitô, Đấng chân thật, khiêm tốn và khôn ngoan, Vị Ngôn sứ của sự thật, tình yêu, người đồng hành và người bạn của các bạn trẻ.” Qua Giáo hội, Đức Giêsu không ngừng mời gọi các bạn trẻ chiếu giãi ánh sáng của Người trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống mình. Ánh sáng này vừa cho phép các bạn trẻ phân định ơn gọi của mình, vừa giúp họ thi hành ơn gọi của mình cách trung tín nhất.

Tiếp nối tinh thần của Công đồng Vatican II về giới trẻ, trong Tông huấn Hãy Vui Mừng trong Chúa (Gaudete in Domino, 1975), thánh Giáo Hoàng Phaolô VI viết: “Chúng tôi nghĩ rằng chúng tôi có mọi lý do để đặt sự tín nhiệm vào giới trẻ Kitô giáo: Giới trẻ sẽ không làm cho Giáo hội thất vọng nếu Giáo hội có đủ những người lớn tuổi hơn có khả năng hiểu giới trẻ, yêu giới trẻ, hướng dẫn giới trẻ và mở ra cho giới trẻ tương lai bởi thông truyền cho giới trẻ sự trung tín hoàn toàn với Sự Thật luôn tồn tại” (Gaudete in Domino 6). Tương tự như thế, trong Tông huấn Loan Báo Tin Mừng (Evangelii Nuntiandi, 1975), thánh nhân viết: “Hoàn cảnh hiện nay thôi thúc chúng ta lưu ý đặc biệt đến những người trẻ. Sự gia tăng về số lượng và sự hiện diện ngày càng nhiều của họ trong xã hội, những vấn đề đang vây lấy họ, đánh thức mọi người phải nhiệt tâm và khôn ngoan lo lắng giúp đỡ họ hiểu biết và sống lý tưởng Tin Mừng. Ngoài ra, những người trẻ, một khi đã được đào tạo kỹ càng về đức tin và cầu nguyện, sẽ càng ngày càng trở nên những tông đồ cho giới trẻ. Giáo hội tin tưởng rất nhiều vào sự đóng góp của họ và chúng ta đã nhiều lần bày tỏ sự tín nhiệm hoàn toàn vào họ” (Evangelii Nuntiandi 72). Đối với thánh nhân, Giáo hội cần quan tâm đặc biệt đến giới trẻ, nhất là giúp họ có được nhãn quan và tâm thức của Giáo hội trong sứ mệnh loan báo Tin Mừng cho toàn thể thế giới.

Đồng nhịp với thánh Giáo hoàng Phaolô VI, trong Tông huấn Kitô Hữu Giáo dân (Christifideles Laici, 1988), thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II viết: “Giáo hội nhìn thấy nơi giới trẻ con đường hướng về tương lai đang đợi mình, và Giáo hội nhận ra nơi giới trẻ hình ảnh và lời nhắc nhủ về sự tươi trẻ mà Thần Khí của Đức Kitô dùng để không ngừng làm phong phú Giáo hội” (Christifideles Laici 46). Ngài cũng nhắc nhở mọi người, đặc biệt các mục tử của Giáo Hội: “Đừng coi giới trẻ chỉ như đối tượng của mối quan tâm mục vụ của Giáo hội mà thôi. Thực sự, giới trẻ đang được và phải được khuyến khích trở thành những chủ thể tích cực, tham gia vào việc Phúc âm hóa và đổi mới xã hội”(Christifideles Laici 46). Như thế, giới trẻ vừa là đối tượng phục vụ của Giáo hội, vừa là chủ thể của Giáo hội trong việc diễn tả khuôn mặt Đức Kitô cho anh chị em mình.

Thánh Antôn Pađôva (1195–1231), vị thánh trẻ và là nhà giảng thuyết lừng danh, khẳng định rằng “hành động có tiếng vang hơn lời nói”. Làm chứng cho niềm tin bằng hành động không phải là chuyện xa xưa, nhưng là chuyện của các thành phần trong thực thể có tên là “Giáo hội của Đức Kitô” hôm nay và luôn mãi. Do đó, nói đến Giáo hội là nói đến cộng đoàn chứng nhân, nói đến Kitô hữu là nói đến chứng nhân, và đặc biệt, nói đến giới trẻ là nói đến những chứng nhân sống động nhất. Giới trẻ luôn là những người làm chứng cách hữu hiệu nhất, bởi vì hơn bất cứ tầng lớp nào, giới trẻ hiện diện trong hầu hết các lãnh vực xã hội.

2. Đọc dấu chỉ

Thế giới hôm nay biến đổi mau chóng và mạnh mẽ hơn nhiều so với quá khứ. Sự phát triển nhanh của khoa học, kỹ thuật, công nghệ dẫn đến những biến đổi nhanh về tâm thức và hành động của con người. Lịch sử nhân loại cho chúng ta biết rằng trong quá khứ, sự biến đổi từ hình thái xã hội hay phương thức lao động sản xuất này đến hình thái xã hội hay phương thức lao động sản xuất khác đòi hỏi thời gian khá dài. Trong bối cảnh hiện tại thì không còn như vậy nữa. Chủ trương của con người đương thời có thể tóm lại như sau: Trong một khoảng thời gian ngắn nhất, biến đổi được nhiều nhất, làm được nhiều việc nhất và thu được nhiều hoa lợi nhất.

Những vấn đề nổi cộm trong thế giới hôm nay rất đa dạng và liên quan đến mọi lãnh vực của đời sống con người trên bình diện cá nhân cũng như tập thể. Chẳng hạn như những vấn đề gai góc nảy sinh trong đời sống chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa của các dân tộc. Những vấn đề cụ thể khác cũng gai góc không kém, chẳng hạn như di dân bất hợp pháp, phân biệt chủng tộc, bạo lực, chiến tranh, dịch bệnh. Một số vấn đề khác nữa cũng được nhiều người quan tâm, chẳng hạn như sự ấm lên toàn cầu do hiệu ứng nhà kính, ô nhiễm không khí, ô nhiễm tiếng ồn hay môi trường thiên nhiên bị khai thác quá mức.

Trong khi đời sống vật chất của con người ngày càng được cải thiện, đây đó vẫn còn sự nghèo đói, chênh lệch giàu nghèo ngày càng lớn và các hình thức bất công ngày càng nhiều. Hơn nữa, tương quan giữa người với người xem ra càng nghèo nàn, các hình thức chủ nghĩa mới ra đời, chẳng hạn như chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa tiêu thụ và chủ nghĩa tương đối. Đáng buồn hơn, sự xuống cấp về đời sống luân lý đã dẫn đến bao hình thức lệch lạc và hệ lụy khác về phái tính, đồng tính luyến ái, hôn nhân tự do và ly dị lan tràn.

Sự khủng hoảng gia đình xảy ra khắp nơi trên thế giới. Những giá trị truyền thống của gia đình ngày càng phai nhạt. Gia đình đơn thân khá phổ biến. Các hình thức gia đình mở rộng không được quan tâm đúng mức. Hình ảnh gia đình gồm nhiều thế hệ, như ông bà, cha mẹ, con cái, cháu chắt dưới một mái nhà rất hiếm. Đặc biệt, ở một số nước trên thế giới khi con cái đến tuổi trưởng thành, họ rời gia đình và sống riêng theo ý mình. Nghĩa “gia đình” (family), nghĩa “nhà” (home) xem ra không mấy quan trọng đối với nhiều người trẻ.

Thế giới kỹ thuật số (the digital world) hay thế giới ảo (the virtual world) ảnh hưởng rất lớn đến giới trẻ. Xét về mặt tích cực, thế giới này giúp người trẻ có điều kiện học hỏi, tích lũy kiến thức và trang bị những gì cần thiết cho cuộc sống. Tuy nhiên, thế giới này quá cuốn hút đối với người trẻ, cuốn hút đến mức có nhiều người “nghiện”. Một số người trẻ dành hầu hết thời gian để tương tác với thế giới này, và dĩ nhiên, họ không còn thời gian để tương tác với những con người bằng xương bằng thịt ngay cạnh họ. Như thế, mặt trái của thế giới này thật khủng khiếp. Nhiều người trẻ không còn liên lạc với những người thân thích của mình nữa. Họ lãnh đạm với “thế giới thực”, thế giới với những con người cụ thể đang hiện diện xung quanh mình.

Trong thế giới toàn cầu hóa hay thế giới phẳng, ngoài các hình thức thị trường truyền thống, như thị trường tiền tệ, thị trường hàng hóa, thị trường tư liệu sản xuất, thị trường phân phối sản phẩm, những người trẻ còn tiếp xúc với vô vàn hình thức thị trường khác nữa, chẳng hạn như ”thị trường các ý tưởng”, “thị trường các tôn giáo”, bởi vì ngày càng dồi dào các ý tưởng và có thêm nhiều tôn giáo. Theo đó, những người trẻ có thể chọn lựa ý tưởng mà họ thích, tôn giáo mà họ muốn. Thực tế cho thấy rằng, vì quá nhanh và ảo, nhiều người trẻ nhầm lẫn trong việc chọn lựa và hậu quả là họ không có cơ hội để phát triển con người toàn diện.

Một số người trẻ cho rằng các tôn giáo với truyền thống lâu đời không năng động, không cuốn hút, không hấp dẫn, không phù hợp với họ, thậm chí còn làm cho họ thất vọng. Họ cố gắng tìm tôn giáo phù hợp với não trạng mình. Đây là lý do giải thích tại sao các tôn giáo mới nở rộ trên thế giới và không có dấu hiệu giảm lại. Với họ, tôn giáo nào phù hợp không gian, thời gian và hoài bão của họ, thì họ theo. Do đó, họ không quan tâm lắm về nội dung đức tin hay giáo lý của mỗi tôn giáo.

Nhiều người trẻ còn đi xa hơn khi cho rằng họ có “đời sống tâm linh không tôn giáo”. Điều này có nghĩa rằng họ xây dựng linh đạo của mình, mà không nhất thiết phải quan tâm hay tham chiếu bất cứ hình thức tôn giáo đặc thù nào. Đối với họ, tôn giáo theo nghĩa truyền thống, tôn giáo với giới răn, cấu trúc, luật lệ, phụng vụ chặt chẽ, làm họ mất tự do lương tâm, tự do tư tưởng, cũng như các hình thức tự do khác và vì vậy làm giảm đi phẩm giá của họ. Họ tạo lập linh đạo riêng cho mình giữa ”ma trận các linh đạo” mà họ cho là không phù hợp, không đáng có.

Nhiều người trẻ thích thể thao hơn linh thao, thể chất hơn tinh chất, thể hình hơn siêu hình, thể diện hơn ẩn diện. Họ dành nhiều thời gian và tâm huyết để xây dựng và phát triển các tương quan bên ngoài hơn là chú ý để làm phong phú đời sống nội tâm. Họ để ý những gì có thể đụng chạm hay cân đong đo đếm được, hơn là nhưng gì thuộc bản chất con người và những gì là nền tảng làm cho con người phân biệt với vạn vật. Họ quan tâm đến đời sống văn hóa, xã hội, chính trị, thương mại, kỹ thuật, công nghệ, hơn là đời sống tôn giáo. Những “siêu nhân”, chẳng hạn như siêu diễn viên, siêu cầu thủ, siêu mẫu, siêu MC cuốn hút tâm trí họ. Do đó, họ tìm hiểu, học hỏi và định dạng mình theo phong cách những người này hơn bất cứ ai khác trên trần gian này.

Giáo dục Kitô Giáo thiếu chỗ đứng trong nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt, các quốc gia ở Châu Á. Thời gian, không gian, và nguồn lực dành cho giáo dục Kitô Giáo ở các quốc gia này quá hạn chế so với các hình thức giáo dục khác. Khi các Kitô hữu trẻ được giáo dục, đào tạo và trưởng thành trong những môi trường mà tinh thần Kitô Giáo bị phủ nhận hoặc chưa có cơ hội bén rễ, họ sẽ chối bỏ hoặc dần quên đi những giá trị căn bản của tôn giáo mình. Hậu quả là khi trưởng thành và tiếp cận môi trường mới, niềm tin của họ rất dễ lung lay và ngày càng trở nên phai nhạt.

Có những người trẻ đã lãnh nhận Bí tích Rửa tội và trở thành thành phần của Giáo hội, tuy nhiên, họ sao nhãng với đời sống Giáo hội khi gặp những biến chuyển mới. Họ cảm thấy miễn cưỡng khi tham gia đời sống và hoạt động của Giáo hội. Đối với họ, đời sống cầu nguyện hay việc đến nhà thờ là chuyện rất riêng tư, chỉ khi họ cần mà thôi, chứ không phải là những gì ổn định, bền vững trong cuộc sống. Họ không chống lại Giáo hội, không chống lại nội dung đức tin Kitô Giáo, tuy nhiên, họ không mấy quan tâm. Trong khi họ dành quá ít thời gian cho cầu nguyện, đọc Kinh Thánh, tham dự các bí tích, nhất là Bí tích Thánh Thể, họ lại dành quá nhiều thời gian cho các hoạt động khác. Một số người trẻ khi còn ở trong giáo họ, giáo xứ thì tham gia đời sống Giáo hội khá đầy đủ. Tuy nhiên, khi học tập hay làm ăn sinh sống xa quê, họ không còn giữ “thói quen đạo đức, tốt lành, thánh thiện” đó nữa. Những thách thức của môi trường mới làm cho họ không màng tới các hình thức đạo hạnh mà họ đã từng thực thi nơi quê hương mình.

Trong đời sống Giáo hội, còn có nhiều vấn đề nổi cộm, chẳng hạn như vấn đề hội nhập văn hóa, đối thoại liên tôn, vai trò của phụ nữ, ơn gọi độc thân dâng hiến, đời sống luân lý của nhiều Kitô hữu xuống cấp, hôn nhân gia đình đổ vỡ. Các hình thức lạm dụng quyền lực, lạm dụng tính dục của những người sống đời độc thân dâng hiến trong bậc giáo sĩ, tu sĩ đem đến những hệ lụy đau thương cho Giáo hội. Căng thẳng giữa công lý và lòng thương xót liên quan đến những người lạm dụng luôn tồn tại. Làm sao Giáo hội có thể làm chứng cho Đức Giêsu và Tin Mừng của Người giữa những tiêu cực nghiêm trọng của con cái mình? Làm sao Giáo hội có thể thực thi vai trò ngôn sứ, trong khi con cái Giáo hội sống ngược với kho tàng đức tin (depositum fidei) mà Giáo hội đón nhận, sống, và chuyển tải?

Chúng ta có thể khẳng định rằng những tiêu cực trong xã hội và Giáo Hội khởi đi từ khủng hoảng đức tin (the crisis of faith). Sự khủng hoảng này dẫn tới các hình thức khủng hoảng khác, đặc biệt, khủng hoảng các chiều kích trong đời sống cá nhân và các tương quan giữa con người với nhau, với thế giới thụ tạo và với Thiên Chúa. Khi trái tim con người không còn chỗ cho đời sống nội tâm, cho đời sống tâm linh và cho Thiên Chúa, cũng là khi con người cho mình là đỉnh cao và trung tâm của vũ trụ này. Khi con người “quy ngã”, cũng là khi con người không còn là chính mình nữa và hậu quả là con người tự mình vùng vẫy giữa bóng đêm tội lỗi, sự dữ, và sự chết.

Trong thế giới hôm nay, cuộc sống của những người trẻ được đan dệt bởi các yếu tố nảy sinh từ các môi trường văn hóa, truyền thống và tôn giáo khác nhau. Họ dễ chấp nhận những gì mới mẻ nảy sinh từ các môi trường này. Không ai có thể thông thạo tất cả các lãnh vực để hướng dẫn họ cách thấu đáo. Do đó, sự cộng tác của mọi người trong tất cả các lãnh vực là cần thiết, để có thể giúp người trẻ sống tốt hơn, đồng thời, giúp họ trung tín, kiên vững hơn với niềm tin Kitô Giáo của mình giữa những bấp bênh và đổi thay của cuộc sống.

Giáo hội được mời gọi tìm hiểu, đánh giá, lượng định những dấu chỉ thời đại để có thể giúp các bạn trẻ sống và diễn tả niềm tin của mình. Giáo Hội giúp các bạn trẻ biết đọc những dấu chỉ thời đại, biết phân định, biết chọn lựa những gì phù hợp với bản chất của niềm tin Kitô Giáo. Không những thế, Giáo hội luôn đồng hành với các bạn trẻ, để giúp họ trở thành những chứng nhân thực thụ của Đức Giêsu và Tin Mừng của Người trong mọi hoàn cảnh. Trước những dấu chỉ của thời đại, Giáo Hội nhắc lại câu hỏi của Đức Giêsu đối với các môn đệ tại Xêdarê Philípphê: “Anh em bảo Thầy là ai?” (Mt 16,16). Khi các bạn trẻ nhận ra Đức Giêsu là Đấng Kitô, Đấng Kitô của Thiên Chúa hay Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống, cũng là khi họ ý thức hơn về căn tính, đời sống và sứ mệnh của mình. Đồng thời, họ cảm nhận được sự cần thiết phải gắn bó với Người trong hành trình trần thế và chia sẻ kinh nghiệm cũng như cảm nhận của mình đối với những người xung quanh.

Giáo hội tin tưởng rằng Thiên Chúa luôn hiện diện và hoạt động trong thế giới thụ tạo, và Thiên Chúa luôn diễn tả chương trình của Người qua những dấu chỉ thời đại. Trong hành trình dương thế, một mặt, Giáo hội trung tín với căn tính, đời sống và sứ mệnh của mình, mặt khác, Giáo hội quan tâm đến những dấu chỉ thời đại. Tác vụ của Giáo hội không chỉ giúp các bạn trẻ đọc những dấu chỉ thời đại, mà còn giúp họ trả lời cho những dấu chỉ đó dưới ánh sáng Lời Chúa. Giáo hội luôn ý thức rằng Lời Chúa không lệ thuộc trực tiếp vào bất cứ nền văn hóa hay truyền thống đặc thù nào, nhưng là thực thể sống động, luôn thích ứng với mọi nền văn hóa và truyền thống trong gia đình nhân loại (Evangelii Nuntiandi 20). Như vậy, giữa những dấu chỉ thời đại, với ánh sáng Lời Chúa, các bạn trẻ luôn nhận ra chỗ đứng của mình trong lòng Giáo hội, đồng thời, nhận ra sứ mệnh của mình giữa lòng nhân thế.

Nhìn lại lịch sử, Giáo hội luôn ý thức đặc tính của mình là duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền, tuy nhiên, Giáo hội cũng ý thức mặt tối nơi các thành phần trong Giáo hội luôn còn đó. Giữa những căng thẳng, khó khăn và thử thách của hành trình trần thế, Giáo hội luôn vững tin rằng, trong Chúa Thánh Thần, Đức Giêsu luôn hiện diện với Giáo hội. Người không để Giáo hội, Thân Thể Mầu Nhiệm của Người quỵ ngã trước sự tấn công của ba thù: Ma quỷ, thế gian, xác thịt. Con thuyền Giáo hội giữa biển đời có khi yên tĩnh, có khi tròng trành, có khi nguy khốn, tuy nhiên, không bao giờ bị chìm xuống, vì có Đức Giêsu là Thuyền Trưởng luôn ở đàng lái (Mc 4,38). Người luôn đồng hành và dẫn dắt Giáo hội, như Người đã đồng hành và dẫn dắt các môn đệ trên các nẻo đường của miền Paléttin (Palestine), đặc biệt, sau khi Phục Sinh, Người đã đến với hai môn đệ trên đường Emmau để trao ban bình an và hy vọng cho họ. Cùng với sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, họ đã trở nên những nhân chứng thực thụ của Đức Giêsu và Tin Mừng của Người cho anh chị em đồng loại.

3. Đường Emmau

Ba tài liệu quan trọng nhất liên quan đến Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới về Giới Trẻ là Tài Liệu Làm Việc (Instrumentum Laboris), Tài Liệu Đúc Kết (Final Document) và Tông Huấn Đức Kitô Đang Sống (Christus Vivit) của Đức Thánh Cha PhanxicôViệc đặt tiêu đề của phần này là “Đường Emmau” để trình bày “Nhãn Quan Giáo Hội về Giới Trẻ trong Thế Giới hôm nay” khởi đi từ kinh nghiệm cá nhân được tham dự Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới về Giới Trẻ (Rôma, 2018). Đây là Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới đầu tiên được tổ chức để tìm hiểu, đánh giá, lượng định về vị trí, vai trò và sứ mệnh của giới trẻ trong đời sống Giáo Hội. Nhờ vậy, Giáo Hội có được bức tranh tổng thể về giới trẻ để đồng hành, chăm sóc mục vụ và giúp họ lớn lên trong đức tin, chọn lựa, và phân định ơn gọi.

Tài Liệu Làm Việc gồm ba phần, Phần I - Nhận Diện: Giáo Hội lắng nghe thực tại; Phần II - Giải Thích: Đức tin và sự phân định ơn gọi; Phần III - Chọn Lựa: Những con đường hoán cải về mục vụ và loan báo Tin Mừng. Sau gần bốn tuần làm việc, các Nghị Phụ đã thống nhất Tài Liệu Đúc Kết Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới về Giới Trẻ cũng gồm 3 phần, nhưng đổi lại các đề mục, dựa trên câu chuyện hai môn đệ trên đường Emmau: Phần I - Đức Giêsu đi với họ; Phần II - Mắt họ mở ra; Phần III: Ngay lúc ấy, họ ra đi. Như chúng ta thấy, các đề mục trong Tài Liệu Đúc Kết phản ánh nhãn quan mới mẻ của các Nghị Phụ so với Tài Liệu Làm Việc. Ngôn ngữ Kinh Thánh đóng vai trò chủ đạo trong Tài Liệu Đúc kết, trong đó, câu chuyện hai môn đệ trên đường Emmau là xương sống (backbone) hay mô hình (model) cho sự khai triển các chủ đề mà Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới về Giới Trẻ quan tâm.

Câu chuyện hai môn đệ trên đường Emmau cũng phản ánh cách thấu đáo 3 phần căn bản của Tài Liệu Làm Việc là: Nhận diện, giải thích và chọn lựa. (1) Nhận Diện - Họ nhận ra Đức Giêsu Phục Sinh; (2) Giải Thích - Họ giải thích kinh nghiệm gặp gỡ Người; (3) Chọn Lựa - Họ trở về với cộng đoàn mà họ đã bỏ đi vì thất vọng. Tuy nhiên, điều quan trọng không phải là hai môn đệ có khả năng nhận diện, giải thích và chọn lựa, mà nhờ “sự đồng hành bất chợt của người khách lạ”, sự đồng hành của Đức Giêsu Phục Sinh.

Khi nghiên cứu Tài Liệu Làm Việc, các Nghị Phụ của Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới về Giới Trẻ đề nghị đưa vào Tài Liệu Đúc Kết nhiều tham chiếu Kinh Thánh hơn nữa. Bởi vì Tài Liệu Làm Việc quan tâm đến ngôn ngữ nhân loại học và các khoa học xã hội, trong khi ngôn ngữ Kinh Thánh ít được đề cập tới. Theo quan điểm của nhiều Nghị Phụ, cần có sự ưu tiên cho ngôn ngữ Kinh Thánh so với các hình thức ngôn ngữ khác, bởi vì ngôn ngữ Kinh Thánh là ngôn ngữ chính của nội dung đức tin Kitô Giáo, đồng thời, cũng là ngôn ngữ chính của Giáo Hội. Một số Nghị Phụ cho rằng ngôn ngữ của Tài Liệu Làm Việc nặng tính logic, hàn lâm và nghiên cứu, hơn là tính mục vụ, áp dụng và thực hành. Để có được Tài Liệu Đúc Kết, khoảng 400 góp ý sửa đổi liên quan đến Tài Liệu Làm Việc. Dĩ nhiên, những điểm căn bản của Tài Liệu Làm Việc đã được tích hợp trong Tài Liệu Đúc Kết. Cuối cùng, trong Tông Huấn Đức Kitô Đang Sống, Đức Thánh Cha Phanxicô diễn tả rất thấu đáo những tư tưởng chính mà Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới về Giới Trẻ quan tâm, khai triển trong Tài Liệu Làm Việc và Tài Liệu Đúc Kết.

Trở lại với câu chuyện hai môn đệ trên đường Emmau, diễn ra trong ngày Đức Giêsu Phục Sinh, câu chuyện này được thánh ký Luca trình thuật ở chương cuối cùng trong Tin Mừng ngài biên soạn (Lc 24,13-35).Chỉ 23 câu, nhưng thánh nhân đã diễn tả những điểm chính yếu trong cuộc gặp gỡ đầy ngạc nhiên, lý thú và ý nghĩa giữa Đức Giêsu và hai môn đệ trẻ. Câu chuyện này có thể áp dụng cho mỗi cá nhân, cho toàn thể Giáo Hội, đặc biệt, cho cộng đoàn cử hành Bí Tích Thánh Thể.

Thánh Luca trình thuật rằng hai môn đệ trên đường trở về Emmau, sau khi chứng kiến hành trình rao giảng, sự đau khổ và sự chết của Đức Giêsu. Ban đầu, Đức Giêsu xuất hiện và đi cùng hai ông, nhưng họ không nhận ra Người. Đức Giêsu hỏi họ về những chuyện họ đang bàn tán và đã giải thích cho họ về những gì liên quan đến Người theo Kinh Thánh Cựu Ước: “Bắt đầu từ ông Môsê và tất cả các ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh” (Lc 24,27). Đến gần làng của họ, Đức Giêsu làm như còn phải đi xa hơn nữa, nhưng họ đã mời Người ở lại. Khi đồng bàn với họ, Đức Giêsu đã cầm bánh, dâng lời chúc tụng và bẻ ra trao cho họ. Mắt họ mở ra và nhận ra Người, nhưng Người lại biến mất. Trước cảnh tượng đó, họ đã hồi tưởng lại những gì Đức Giêsu trao đổi với họ trên đường đi. Sau đó, họ trở về Giêrusalem để loan báo Tin Mừng Đức Giêsu Phục Sinh cho các môn đệ khác. Hình ảnh hai môn đệ khi sum họp với các môn đệ đang ở Giêrusalem hết sức đặc biệt. Vừa tới nơi, hai môn đệ chưa kịp cất lời, thì các môn đệ ở Giêrusalem đã mừng rỡ báo cho họ biết: ”Chúa trỗi dậy thật rồi, và đã hiện ra với ông Simôn” (Lc 24,34). Hai ông cũng thuật lại cho các môn đệ ở Giêrusalem về những gì xảy ra đối với họ trên đường Emmau, đặc biệt, khi người khách bộ hành ở lại nhà họ.

Thánh ký Luca không cho chúng ta biết thêm nhiều về những gì Đức Giêsu đã nói, đã làm trong thời gian ở lại với họ. Tuy nhiên, những gì thánh nhân trình bày cho phép chúng ta hiểu được rằng khi Đức Giêsu ở lại với họ, Người không chỉ quan tâm đến đời sống tâm linh, mà còn quan tâm đến tất cả các chiều kích khác của đời sống họ nữa. Biến cố Emmau có thể được chia làm ba ”thì”: (1) Chia sẻ Lời Chúa, (2) cử hành Bí Tích Thánh Thể và (3) loan báo Tin Mừng. Đây cũng là ba thì trong đời sống Giáo Hội, ba thì trong đời sống mỗi Kitô hữu. Đặc biệt, đây là ba thì của cộng đoàn tham dự Bí Tích Thánh Thể.

Tâm trạng của hai môn đệ trên đường Emmau là tâm trạng của những người vô vọng. Cũng như các môn đệ Đức Giêsu và nhiều người khác, họ mong đợi Đức Giêsu sẽ giải thoát họ, giải thoát dân tộc Do Thái. Họ nói với người khách lạ đang đồng hành: “Phần chúng tôi, trước đây vẫn hy vọng rằng chính Người là Đấng sẽ cứu chuộc Ít-ra-en” (Lc 24,21). Giấc mơ giải phóng trong họ cũng như nhiều người Do Thái khác đã tan biến thành mây khói khi Đức Giêsu đã chết. Đó là lý do giải thích tại sao họ rời bỏ cộng đoàn Giêrusalem để trở về làng quê Emmau, trở về đường xưa lối cũ của mình. Khi họ quay lưng lại với cộng đoàn Đức Giêsu thiết lập, cũng là khi “trời tối dần”, trí tối dần, tâm tối dần. Tuy nhiên, họ không ngừng trăn trở về Đức Giêsu, và quả thực, họ có cơ hội được khai trí mở lòng. Đức Giêsu, người khách lạ, đã giải thích cho họ về những trăn trở đó, dựa trên tâm tình tôn giáo của cha ông họ trong Cựu Ước.

Khi Đức Giêsu Bẻ Bánh, mắt họ mở ra và họ nhận ra Người. Chúng ta có thể lý giải rằng nếu họ không được chuẩn bị trước đó, nếu Đức Giêsu đã không trò chuyện với họ trước đó, nếu Đức Giêsu không đánh thức con tim của họ trước đó, thì khi Đức Giêsu bẻ bánh, họ không thể nào nhận ra Người được. Trên đường Emmau, con mắt thể lý của hai môn đệ luôn mở ra, mở ra để thấy đường về cố hương. Tuy nhiên, mắt tâm linh của họ vẫn bị đóng lại, bởi vì họ đi ngược hướng, đi ngược đường. Hướng họ đi là hướng chiều tà, hướng mặt trời lặn, hướng của đêm tối. Đức Giêsu muốn họ đi về hướng Giêrusalem, hướng Đức Giêsu là “Hừng Đông Rực Rỡ”, là “Mặt Trời Công Chính”. Đức Giêsu là Đường, nhưng không phải là con đường nhung lụa của vinh quang trần thế, càng không phải là con đường trở về quê quán trần gian. Người là Đường Xuống Với Con người, Đường Đau Khổ, Đường Thập Giá, Đường Trái Tim, Đường Thánh Thiện, Đường Về Với Thiên Chúa.

Dưới sự hướng dẫn của Thần Khí Đấng Phục Sinh, họ đã trở về Giêrusalem và cùng với các môn đệ khác, họ ra đi loan báo Đức Giêsu Phục Sinh và Tin Mừng của Người khắp nơi. Những gì họ được nghe, được chia sẻ khi gặp gỡ Đức Giêsu Phục Sinh trở thành động lực cho sứ mệnh của họ đến hơi thở cuối cùng. Như vậy, tất cả mọi sự bắt đầu bằng việc gặp gỡ Đức Giêsu Phục Sinh, được Người chia sẻ, được Người hướng dẫn. Điều này, cho phép chúng ta rút ra hệ luận rằng ai không muốn gặp gỡ Đức Giêsu Phục Sinh, ai không muốn Người chia sẻ, ai không muốn Thánh Thần của Người hướng dẫn, người đó không thể là chứng nhân của Đức Giêsu Phục Sinh và Tin Mừng của Người được.

Ai ý thức sự hiện diện của Đức Giêsu trong Bí Tích Thánh Thể, thì cũng hiệp thông với Người cách mật thiết và cảm nhận được sự thúc đẩy “sống Bí Tích Thánh Thể” cách chân thành trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống mình. Người tham dự Lễ Bẻ Bánh, cũng là người biết chia sẻ tình bác ái và những gì thuộc về mình cho những người xung quanh. Khi làm như vậy, họ minh chứng rằng mình là dấu chỉ khả tín của Đức Giêsu và Tin Mừng của Người. Họ có thể đồng hành với những người khác như Đức Giêsu đồng hành với họ, yêu người khác như Đức Giêsu đã yêu họ và chia sẻ với người khác như Đức Giêsu đã chia sẻ với họ.

Trong Tông Huấn Đức Kitô Đang Sống, Đức Thánh Cha Phanxicô viết: ”Đức Giêsu cùng đi với các môn đệ trên đường Emmau, ngay cả khi họ đang đi lạc hướng. Khi Đức Giêsu dự định đi xa nữa, họ nhận ra rằng Đức Giêsu đã cho họ món quà thời gian, vì vậy họ quyết định cho Người thời gian của họ bằng sự tiếp đón Người chu đáo” (Christus Vivit 292). Hai môn đệ có quyền tự do mời người khách bộ hành ở lại với họ hoặc để người khách bộ hành tiếp tục đi. Nếu hai môn đệ trên đường Emmau không mời người khách bộ hành cùng đi, không mời Đức Giêsu cùng đi, và đặc biệt không quảng đại mời Người ở lại nhà họ, thì họ đã không có cơ hội nhận ra Người, cũng như nhận ra mình để biến đổi và trở thành khí cụ hữu hiệu của Người.

Mời người lạ vào nhà mình, mời những người chưa biết Đức Giêsu và Tin Mừng của Người về nhà mình, tỏ lòng tốt, lòng hiếu khách và phục vụ khách lạ cách tận tình như hai môn đệ trên đường Emmau là cách tốt nhất để mọi người thể hiện mình là môn đệ và tông đồ của Đức Giêsu giữa dòng đời. Hôm nay, Đức Giêsu vẫn nhắc nhở chúng ta: “Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han” (Mt 25,35-36). Là những môn đệ của Đức Giêsu, chúng ta không chỉ quan tâm đến việc giữ Mười Giới Răn và những bổn phận khác thuộc luật Chúa, luật Giáo Hội, mà còn quan tâm đến “những việc tốt” cần phải làm trong tương quan với anh chị em chúng ta nữa.

Đức Giêsu là người khách bộ hành của cuộc đời chúng ta. Người đến với chúng ta những lúc chúng ta không ngờ tới. Người đến theo “thời của Người” là “thời tình yêu vĩnh cửu”. Nghĩa là Người luôn đến với chúng ta và đồng hành cùng chúng ta trong mọi biến cố của cuộc đời. Chúng ta hãy mời Đức Giêsu Phục Sinh ở lại với chúng ta, để nhờ Người, con mắt tâm hồn của chúng ta luôn mở ra và nhận ra Người. Câu chuyện hai môn đệ trên đường Emmau không chỉ là câu chuyện cách đây gần 2000 năm, mà là câu chuyện của ngày hôm nay và luôn mãi, vì Đức Giêsu là Bạn luôn đồng hành và hướng dẫn mỗi người chúng ta. Câu chuyện này vừa là khuôn mẫu cho chương trình mục vụ của Giáo Hội đối với giới trẻ, đồng thời, vừa là khuôn mẫu cho đời sống và sứ vụ của những người trẻ trong Giáo Hội, cũng như tất cả mọi Kitô hữu.

Câu chuyện hai môn đệ trẻ trên đường Emmau gợi lại cho chúng ta câu chuyện Đức Giêsu làm cho con trai bà goá thành Nain sống lại: “Người lại gần, sờ vào quan tài. Các người khiêng dừng lại. Đức Giêsu nói: Này người thanh niên, tôi bảo anh: hãy trỗi dậy! Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Đức Giêsu trao anh ta cho bà mẹ” (Lc 7,14-15). Trước khi gặp Đức Giêsu Phục Sinh, hai môn đệ trên đường Emmau đang sống, nhưng có thể xem như đã chết. Hy vọng của họ về sự biến đổi thân phận mình cũng như dân tộc Do Thái đã vụt tắt, vì Đức Giêsu đã chết. Tuy nhiên, với Đức Giêsu Phục Sinh, họ đã được sống lại, bởi vì họ nhận được Thần Khí của Người, Thần Khí luôn nhắc nhở họ “hãy trỗi dậy”. Nhờ vậy, họ ý thức rằng sự biến đổi thân phận của họ và của tất cả mọi người trong gia đình nhân loại còn kỳ diệu hơn, là trở thành con cái Thiên Chúa nhờ Đức Giêsu, trong Quê Hương Vĩnh Cửu. Đó là lý do giải thích tại sao họ lập tức trở về Giêrusalem để cùng với các môn đệ khác ra đi loan báo Tin Mừng Phục Sinh.

Giáo Hội tiếp tục sống kinh nghiệm biến cố Emmau bằng cách thực thi sự hòa hợp giữa ba thì, đó là: Chia sẻ Lời Chúa, cử hành Bí Tích Thánh Thể và làm chứng cho Đức Giêsu và Tin Mừng của Người bằng cuộc sống. Trong thực tế, chúng ta nhận ra những bất cập, khập khiễng, lệch lạc nhất định trong ba thì này đối với con cái Giáo Hội. Kinh nghiệm cho chúng ta thấy rằng những bất cập, khập khiễng, lệch lạc của con cái Giáo Hội trong quá khứ cũng như hiện tại ít khi khởi xuất ở “thì chia sẻ Lời Chúa” hay “thì cử hành Bí Tích Thánh Thể”, mà ở “thì hành động”. Sự u tối, lệch lạc và thiên kiến của những người Pharisêu, kinh sư, luật sĩ mà Đức Giêsu đề cập trong hành trình loan báo Tin Mừng của Người luôn là những bài học có tính thời sự cho tất cả con cái Giáo Hội qua dòng thế kỷ.

Câu chuyện hai môn đệ trẻ trên đường Emmau mãi mãi là câu chuyện mẫu mực cho tất cả mọi người, đặc biệt cho những người trẻ. Giáo Hội chính là “sự nhập thể của biến cố Emmau” cho đến tận thế. Do đó, Giáo Hội luôn đồng hành với các bạn trẻ trong cả ba thì của biến cố Emmau, đó là chia sẻ Lời Chúa, cử hành Bí Tích Thánh Thể và loan báo Tin Mừng. Giáo Hội đồng hành với các bạn trẻ trong việc thăng tiến đức tin, nhận diện và giải thích thực tại, đồng thời, giúp họ trong việc chọn lựa ơn gọi và trung tín với ơn gọi của mình giữa những khó khăn bấp bênh của cuộc sống hằng ngày. Sự trưởng thành toàn diện của những người trẻ và sự đóng góp của họ cho gia đình, Giáo Hội và xã hội lệ thuộc rất lớn vào đường hướng mục vụ của Giáo Hội hôm nay và luôn mãi.

4. Hướng mục vụ

Trong Sứ Điệp gửi các bạn trẻ khi kết thúc Công Đồng Vatican II (8/12/1965), các Nghị Phụ nhấn mạnh rằng Giáo Hội “trở nên phong phú bởi lịch sử lâu dài và sống động, và hướng tới sự hoàn thiện của con người trong thời gian và các định mệnh tối hậu của lịch sử và cuộc sống, Giáo Hội thực sự trẻ trung cho thế giới.” Điều này thật đúng đắn, bởi vì Đức Giêsu là Đấng trẻ trung luôn mãi. Giáo Hội là bí tích của Đức Giêsu, do đó, Giáo Hội cũng là thực tại trẻ theo khuôn mẫu của Người. Trong Tông Huấn Đức Kitô Đang Sống, Đức Thánh Cha Phanxicô giải thích: “Giáo Hội trẻ trung khi Giáo Hội là chính mình, khi Giáo Hội luôn nhận được sức mạnh khởi xuất từ Lời Chúa, Bí Tích Thánh Thể, và sự hiện diện mỗi ngày của Đức Kitô và quyền năng của Chúa Thánh Thần trong đời sống chúng ta. Giáo Hội trẻ trung khi chứng thực khả năng luôn trở về nguồn của chính mình” (Christus Vivit 35).

Giáo Hội trẻ trung ra đi cùng với các bạn trẻ, và cùng họ đến với tất cả mọi người. Giáo Hội chuẩn bị tâm hồn cho các bạn trẻ, làm cho họ thấm nhuần tinh thần Tin Mừng để cùng họ đem Tin Mừng đến cho người khác. Hiến chế Gaudium et Spes của Công Đồng Vatican II khẳng định: “Đầu mối, trung tâm và cùng đích của toàn thể lịch sử nhân loại đều ở trong Ðức Kitô là Chúa và là Thầy của Giáo Hội. Hơn nữa, Giáo Hội còn xác nhận rằng qua mọi thay đổi, có nhiều điều vẫn không đổi thay vì nền tảng cuối cùng của những điều không thay đổi này là Chúa Kitô, Ðấng hôm qua, hôm nay và mãi mãi” (Gaudium et Spes 10). Như Đức Giêsu đã phó thác chương trình của mình cho các môn đệ, Giáo Hội cũng phó thác chương trình của mình cho các bạn trẻ, để nhờ và qua các bạn trẻ, căn tính, đời sống và sứ mệnh của Giáo Hội được tỏ hiện cách rõ ràng hơn giữa lòng nhân thế.

Để công việc mục vụ giới trẻ ngày càng hiệu quả hơn, khái niệm “tính đồng nghị” (synodality) được Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới về Giới Trẻ 2018 quan tâm nhất. Khái niệm này cho phép mọi người ý thức hơn về bản chất của Giáo Hội. “Synodality” phát xuất từ “synod” (công nghị). Trong tiếng Hy Lạp “synod” được hình thành bởi giới từ “συν” (với) và danh từ “όδός” (đường). Như vậy “synod” (σύνοδος, synodos) là “đi cùng con đường”, chẳng hạn như Dân Thiên Chúa đi cùng con đường, đồng hành cùng nhau tiến về Nước Thiên Chúa. Khái niệm này có nền tảng Kinh Thánh, truyền thống và Giáo Huấn vững chắc. Các Đức Giáo Hoàng trong lịch sử Giáo Hội ít khi nói đến “dân chủ hóa Giáo Hội”, mà nói nhiều về sự tham gia, cộng tác của các thành phần trong Giáo Hội. Các Đức Giáo Hoàng trong những thập niên gần đây đề cập nhiều hơn về ý tưởng này, chẳng hạn như thánh Giáo Hoàng Phaolô VI, thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI và Đức Thánh Cha Phanxicô.

Giáo Hội là “thực tại đồng nghị”. Tính đồng nghị phản ánh bản chất của Giáo Hội là cộng đoàn được Thiên Chúa kêu gọi và triệu tập (κκλησία, Ecclesia) để đồng hành với Đức Giêsu Phục Sinh trong Chúa Thánh Thần cho đến tận thế. Tinh thần đồng nghị được diễn tả qua các Công Đồng trong lịch sử, nhất là Công Đồng Vatican II và các Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới được tổ chức sau Công Đồng Vatican II cho đến hôm nay. Tinh thần đồng nghị mời gọi tất cả mọi người tham gia, mọi người đóng góp cho sự tiếp tục, tồn tại và phát triển của Giáo Hội, bởi vì Giáo Hội là của tất cả mọi người và cho tất cả mọi người. Quyền bính của Giáo Hội là quyền bính đồng nghị, tinh thần của Giáo Hội là tinh thần đồng nghị. Tinh thần này cho phép Giáo Hội duy trì sự hiệp nhất trong đa dạng, không theo nghĩa “dân chủ hóa” mang tính chính trị, xã hội, nhưng theo nghĩa “cùng hướng về Thiên Chúa” trong hành trình trần thế của Giáo Hội.

Tính đồng nghị của Giáo Hội không chỉ được diễn tả trong việc chăm sóc mục vụ giới trẻ mà còn trong mọi khía cạnh và chiều kích khác nhau của Giáo Hội. Giáo Hội đồng nghị (the synodal Church) là Giáo Hội trong đó mọi người cùng hướng về mục đích chung là Đức Kitô viên mãn (Ep 1,9-10). Kinh nghiệm về Giáo Hội đồng nghị cho phép thực thi tinh thần đồng nghị trong các tổ chức, các giáo xứ, giáo phận, cũng như tất cả các lãnh vực khác trong đời sống Giáo Hội. Mỗi cộng đoàn, mỗi giáo hội địa phương phát huy tinh thần đồng nghị của Giáo Hội đối với đời sống và sứ mệnh cụ thể của cộng đoàn hay giáo hội địa phương mình. Các thành phần trong Giáo Hội cùng nhau lắng nghe Chúa Thánh Thần để đồng hành với nhau, nhất là đồng hành với giới trẻ.

Giáo Hội đồng nghị là Giáo Hội lắng nghe. Trong Diễn từ nhân dịp kỷ niệm 50 năm thành lập Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới, 17/10/2015, Đức Thánh Cha Phanxicô nói: “Giáo Hội đồng nghị là Giáo Hội lắng nghe, với ý thức rằng việc lắng nghe (listening) “còn hơn cả nghe (hearing)”. Đó là một sự lắng nghe qua lại, trong đó, mỗi người đều có điều gì đó để học. Các tín hữu, Giám Mục Đoàn, Giám Mục Rôma: Tất cả lắng nghe nhau, và tất cả lắng nghe Chúa Thánh Thần, “Thần Khí sự thật” (Ga 14,17), để biết điều Người “nói với các Hội Thánh” (Kh 2,7).” Lắng nghe trở hành điều kiện căn bản, điều kiện then chốt, điều kiện không thể thiếu để Giáo Hội thi hành sứ mệnh của mình. Do đó, trong chương trình mục vụ giới trẻ, Giáo Hội phải luôn là Giáo Hội lắng nghe các bạn trẻ, hầu có thể đi vào cuộc sống của họ, để đồng hành và phục vụ họ cách đắc lực nhất.

Giáo Hội đồng nghị là Giáo Hội đối thoại, đối thoại với các bạn trẻ trên bình diện cá nhân và các hình thức tập thể. Đối thoại với các bạn trẻ sẽ làm cho tương quan giữa các vị hữu trách trong Giáo Hội và các bạn trẻ ngày càng gần gũi và gắn bó hơn, đồng thời, cho phép Giáo Hội vạch ra chương trình và đường hướng mục vụ giới trẻ hiệu quả hơn. Cảm thức đức tin của các tín hữu (sensus fidei fidelium), đặc biệt, cảm thức đức tin của các bạn trẻ cần được quan tâm đúng mức. Việc đối thoại giúp tất cả mọi người được soi sáng để có thể giải quyết những vấn đề phức tạp đang tồn tại trong các tương quan và cùng nhau tìm ra đường hướng mục vụ mới và tốt đẹp hơn cho Giáo Hội. Nhờ đối thoại, Giáo Hội giúp các bạn trẻ nhận ra ơn gọi và đặc sủng của mình trong thân thể có tên là “Giáo Hội”, mà các bạn trẻ là những thành phần sống động.

Giáo Hội đồng nghị không chỉ là Giáo Hội giảng dạy (Ecclesia docens), mà còn là Giáo Hội học hỏi nữa (Ecclesia discens). Giáo Hội học hỏi từ các lãnh vực khác trong đời sống con người, đặc biệt, từ các khoa học xã hội. Giáo Hội học hỏi từ các bạn trẻ, chẳng hạn như học hỏi “văn hóa của họ”, “biểu tượng của họ”, “ngôn ngữ của họ”, “thói quen của họ”, và tất cả những gì liên quan đến họ. Cùng với họ, Giáo Hội dấn thân vào các môi trường nơi họ hiện diện và hoạt động. Trong mọi hoàn cảnh, cảm thức đức tin của các tín hữu, cảm thức đức tin của các bạn trẻ, cần được quan tâm và tích hợp trong đời sống Giáo Hội. Tham khảo, học hỏi từ các bạn trẻ là điều thiết yếu giúp Giáo Hội diễn tả chính mình là Giáo Hội trẻ cho các bạn trẻ.

Giáo Hội đồng nghị là Bạn của các bạn trẻ. Đối với giới trẻ, tình bạn rất quan trọng, đặc biệt, tình bạn của những người cùng lứa tuổi, cùng trình độ học vấn, cùng đam mê, cùng sở thích (peer friends, peer relationships). Để giúp các bạn trẻ triển nở trong các tương quan đó, Giáo Hội tạo điều kiện để các bạn trẻ tiếp cận nội dung đức tin Kitô Giáo cách đầy đủ nhất qua các chương trình huấn luyện, dựa trên Giáo Huấn của Giáo Hội, đặc biệt, Giáo Lý của Giáo Hội và các tài liệu hữu ích khác như YouCat và DoCat và các Tông Huấn, Thông Điệp của các Đức Giáo Hoàng. Ngôn ngữ tình bạn phải là ngôn ngữ quan trọng trong mục vụ của Giáo Hội đối với các bạn trẻ.

Giáo Hội mời gọi các bạn trẻ xây dựng tương quan tình bạn đặt nền tảng trên tương quan của họ đối với Người Bạn Lớn (Big Brother) là Đức Giêsu. Đối với Người, tình yêu của Người cũng chính là tình bạn và ngược lại (Ga 15,12-15). Giáo Hội luôn gần gũi với các bạn trẻ như chính Đức Giêsu luôn gần gũi với các môn đệ của Người. Tình bạn sâu đậm đó được diễn tả qua hình ảnh cây nho và cành nho liên kết với nhau và trổ sinh hoa trái dồi dào (Ga 15, 1-8). Khi Đức Giêsu là Bạn của các bạn trẻ, khi Giáo Hội là Bạn của các bạn trẻ, cũng là khi các bạn trẻ nhận ra rằng họ có trách nhiệm đối với Bạn mình và vì vậy họ sẽ thiết lập tình bạn với những người khác dựa trên tinh thần là bạn của Đức Giêsu, là bạn của Giáo Hội.

Giáo Hội đồng nghị diễn tả chính mình như là Gia Đình Thiên Chúa ở trần gian này. Nơi đây, mọi người được đón nhận, được nâng đỡ và được phát triển phù hợp với phẩm giá mình. Nơi đây, mọi người “đi cùng con đường” (σύνοδος, synodos) trong hành trình tiến về với Gia Đình Thiên Chúa. Như là Gia Đình Thiên Chúa ở trần gian, Giáo Hội đồng hành với các bạn trẻ và cho họ hiểu rằng sự quan tâm của Giáo Hội không chỉ là gia đình cơ bản, gia đình là tế bào xã hội. Giáo Hội giúp các bạn trẻ có tầm nhìn rộng hơn về các hình thức gia đình mở rộng nữa, chẳng hạn như gia đình giáo họ, giáo xứ, gia đình dòng tu, gia đình giáo phận, gia đình các dân tộc, gia đình nhân loại. Tất cả các hình thức gia đình này sẽ sinh hoa kết trái dồi dào khi được nuôi dưỡng bởi các giá trị của Gia Đình Thiên Chúa, được Đức Giêsu loan báo và thực thi trong hành trình trần thế, và được Giáo Hội tiếp tục diễn tả trong sứ mệnh của mình.

Giáo Hội đồng nghị là Giáo Hội phục vụ xã hội. Các thành phần trong Giáo Hội đi cùng với Thiên Chúa và cùng đi với nhau, thì sẽ có cùng viễn kiến trong môi trường nhân loại. Giáo Hội luôn ý thức rằng Giáo Hội không tách mình khỏi nhân loại, Giáo Hội ở trong nhân loại, Giáo Hội đồng hành cùng nhân loại. Tính đồng nghị của Giáo Hội thể hiện cho đến khi tất cả mọi người trong gia đình nhân loại cùng đi với Thiên Chúa và cùng đi với nhau hướng về Nước Thiên Chúa viên mãn. Như đã được đề cập ở trên, việc Đức Giêsu cùng đi với hai môn đệ trên đường Emmau là hình ảnh giúp Giáo Hội mời gọi tất cả mọi người, đặc biệt mời gọi các bạn trẻ khác cùng đi Đường Đức Giêsu, cùng lắng nghe Đức Giêsu, cùng chia sẻ Bánh Đức Giêsu và cùng Đức Giêsu loan báo Tin Mừng cho tất cả mọi người.

Như hai môn đệ trên đường Emmau, các bạn trẻ được mời gọi cộng tác với Giáo Hội trong việc phân định ơn gọi của mình, hầu trong bất cứ hình thức ơn gọi nào, các bạn trẻ đều là những chứng nhân của Đức Giêsu và Tin Mừng của Người. Để được như thế, trước hết các bạn trẻ phải là con người của niềm tin, tình yêu và hy vọng dựa trên nội dung đức tin Kitô Giáo. Các bạn trẻ đều có ơn gọi chung là “theo Đức Giêsu”, trước tất cả các hình thức ơn gọi cụ thể khác, chẳng hạn như độc thân dâng hiến trong bậc linh mục, tu sĩ, sống đời thánh hiến, hay bất cứ hình thức ơn gọi nào khác. Để có thể trung tín với ơn gọi là môn đệ của Đức Giêsu, Giáo Hội giúp các bạn trẻ tạo “thói quen gần gũi với Người”, để từ đó, họ luôn là nhân chứng của Người cho anh chị em mình.

Giáo Hội khởi xuất từ ý định đời đời của Thiên Chúa Cha, được Chúa Giêsu thiết lập và Chúa Thánh Thần thánh hóa, để tiếp tục sự hiện diện của Đức Giêsu giữa dòng đời. Giáo Hội mời gọi các bạn trẻ hãy có “tinh thần Giáo Hội”, hãy là “những diễn viên thực thụ” của Giáo Hội, chứ không phải là những khán giả hay những người bên ngoài. Giáo Hội bao gồm những người bất xứng, tội lỗi, nhưng Giáo Hội luôn là “dấu chỉ và khí cụ” diễn tả tương quan mật thiết giữa Thiên Chúa và nhân loại, cũng như muôn vật muôn loài trong thế giới thụ tạo này (Lumen Gentium 1). Thực tế cho thấy rằng có những bạn trẻ thưa “vâng” (yes) với Đức Giêsu, nhưng lại thưa “không” (no) với Giáo Hội. Một số bạn trẻ nhìn nhận Giáo Hội như là thực tại già cỗi, lỗi thời, là thực tại thuộc quá khứ, đang kìm hãm hay phân tán tư tưởng của họ. Do đó, các bạn trẻ dành nhiều thời gian cho âm nhạc, cho thể thao và các hình thức tiêu khiển khác, hơn là dành thời gian diễn tả căn tính, đời sống và sứ mệnh của Giáo Hội mà họ là những thành phần.

Trong sứ vụ rao giảng của mình, Đức Giêsu không “hạ thấp” chương trình của Người để phù hợp với tâm thức của các môn đệ trẻ. Đức Giêsu mời họ “đến mà xem” và họ bị Người cuốn hút, không phải bởi sự dễ dãi nhưng bởi sự ngạc nhiên với giáo huấn của Người (Ga 1,35-39). Theo chân Đức Giêsu, Giáo Hội không tầm thường hóa nội dung đức tin mà Giáo Hội được ủy thác gìn giữ, sống và loan truyền từ thế hệ này đến thế hệ khác trong dòng lịch sử. Giáo Hội không “hạ thấp” những bổn phận của Kitô hữu để “làm vừa lòng” các bạn trẻ. Giáo Hội mời gọi các bạn trẻ đến với Giáo Hội, ở lại với Giáo Hội và nhận ra Giáo Hội chính là thực thể tiếp tục Biến Cố Đức Giêsu Kitô trong hành trình trần thế.

Như đã được đề cập ở trên, toàn cầu hóa và thế giới kỹ thuật số đem lại nhiều cơ hội cho con người phát triển, tuy nhiên, cũng hàm chứa nhiều thách đố và muôn hình thức cám dỗ. Một mặt, toàn cầu hóa và thế giới kỹ thuật số giúp con người sống gần nhau hơn, sự chia sẻ đời sống vật chất, tinh thần ngày càng dễ dàng hơn. Mặt khác, toàn cầu hóa, thế giới kỹ thuật số và cùng với con đẻ của nó là thế giới ảo luôn chứa đựng những bất trắc, bất cập, bất hòa hợp giữa con người với nhau, cũng như giữa con người với thế giới thụ tạo. Toàn cầu hóa và thế giới kỹ thuật số vừa là cơ hội để Giáo Hội thuận tiện hơn trong việc loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa, vừa là thách đố lớn lao đối với con cái Giáo Hội trong việc trung tín với niềm tin của mình giữa muôn lựa chọn và thực thể hấp dẫn khác.

Các phương tiện truyền thông, thông tin hiện đại có thể là “những đầy tớ trung tín”, cũng có thể là “những ông chủ xấu” của người sử dụng. Trong khi có nhiều bạn trẻ rất tích cực trong việc sử dụng các phương tiện này để loan báo Tin Mừng, để làm điều tốt và khuyến khích người khác làm điều tốt, vẫn còn những bạn trẻ trở nên nô lệ các phương tiện truyền thông, thông tin sai lệch. Cần ghi nhận rằng giữa cảnh “vàng thau lẫn lộn”, giữa cảnh lầm lẫn các giá trị và đầy cám dỗ của thế giới này, vẫn có nhiều bạn trẻ rất quan tâm và thực thi những hình thức đạo đức, chẳng hạn như đọc và chia sẻ Kinh Thánh, đến với các bí tích, đặc biệt là Bí Tích Thánh Thể, dành thời gian hằng ngày để đến với Chúa Giêsu Thánh Thể, gắn bó với các phong trào, như Thiếu Nhi Thánh Thể, Hướng Đạo và nhiều phong trào đạo đức khác nhằm đóng góp phần mình cho sự phát triển của Giáo Hội. Cảm thức thuộc Đức Giêsu, thuộc về Tin Mừng của Người, thuộc về Giáo Hội khá phổ biến trong giới trẻ của nhiều nước trên thế giới.

Nhân danh Giáo Hội, Đức Thánh Cha Phanxicô nhắc nhở các bạn trẻ, cũng như tất cả mọi người rằng hãy online với Đức Kitô, hãy nối mạng với Người (Christus Vivit 158). Giáo Hội luôn mời các bạn trẻ hãy chuyện trò với Người, hỏi han Người và nhờ Người hướng dẫn trong mọi biến cố của cuộc sống, đặc biệt, trong những lúc gặp khó khăn. Giáo Hội ý thức rằng nếu các bạn trẻ luôn nối mạng với Đức Kitô, thì sẽ hiểu rõ hơn phẩm giá mình, tình trạng tâm hồn mình, đồng thời, nhận ra “Ai” và “điều gì” cần thiết nhất cho cuộc sống mình. Hơn nữa, nếu các bạn trẻ luôn nối mạng với Đức Kitô, thì sẽ nhận ra được đường đi cho mình giữa dòng đời tăm tối, bấp bênh và đầy sóng gió này.

Đức Thánh Cha Phanxicô viết: “Chúng ta không chỉ nói rằng người trẻ là tương lai của thế giới chúng ta. Họ là hiện tại của thế giới; ngay cả bây giờ, họ đang giúp làm cho thế giới thêm phong phú” (Christus Vivit 64). Ngài cũng nhấn mạnh rằng các bạn trẻ là “hiện tại của Thiên Chúa” (Christus Vivit 178). Giáo Hội mời gọi các bạn trẻ đóng góp phần mình trong mọi hoạt động của gia đình, Giáo Hội và xã hội, hầu có thể biến đổi các thực tại này theo thánh ý Thiên Chúa. Tiếp nối tinh thần Công Đồng Vatican II, Giáo Hội mời gọi các bạn trẻ hãy luôn trở về tận đáy lòng để biết mình nhiều hơn, luôn đọc những dấu chỉ hằng ngày và luôn cộng tác với Chúa Thánh Thần trong việc biến đổi bản thân để các bạn luôn là những môn đệ và tông đồ trung tín của Đức Giêsu giữa thế gian này.

Giáo Hội mời gọi các bạn trẻ sống đời thánh thiện, bởi vì thánh thiện là nền tảng trên đó các bạn trẻ diễn tả các chiều kích khác của cuộc sống. Sự thánh thiện Kitô Giáo không phải là một ý tưởng hay là điều gì đó trừu tượng. Sự thánh thiện Kitô Giáo có “hình hài” là Đức Giêsu, Đấng Thánh của Thiên Chúa (Ga 6,69). Do đó, các bạn trẻ được mời gọi theo Đức Giêsu, Đấng Trẻ Trung Muôn Đời giữa lịch sử đầy biến động và đổi thay này. Những cám dỗ của thế giới vật chất sẽ lùi bước khi các bạn trẻ dõi theo Đức Giêsu, Đường Thánh Thiện. Thánh thiện luôn là một dự án lâu dài, một hành trình không bao giờ chấm dứt của mỗi người trên đường dương thế. Giáo Hội mời gọi các bạn trẻ hãy đi Đường Thánh Thiện để đến với Thiên Chúa, đến với nhau và đến với muôn vật muôn loài trong thế giới thụ tạo này.

Đức Maria luôn đi Đường Thánh Thiện. Người chính là mẫu gương cho tất cả mọi người, đặc biệt, cho các bạn trẻ, vì Đức Maria đã thưa: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa” (Lc 1,38)Trong cuộc đời mình, Đức Maria đã lắng nghe Lời Chúa, đón nhận Lời Chúa, suy niệm Lời Chúa, cưu mang Lời Chúa, đồng hành cùng Lời Chúa Nhập Thể (Đức Giêsu) trên mọi nẻo đường dương thế. Sau khi Đức Giêsu về trời, Đức Maria hằng ở lại với các tông đồ và cùng với họ cầu nguyện, chia sẻ Lời Chúa và cử hành Bí Tích Thánh Thể (Cv 1,14; 2,42). Đồng thời, Đức Maria đã cùng với các môn đệ loan báo Đức Giêsu và Tin Mừng của Người cho anh chị em đồng loại.

Kết luận

Những quan sát, đánh giá và diễn tả trên đây giúp chúng ta tiếp cận và hiểu biết cách tổng quát “nhãn quan Giáo Hội về giới trẻ trong thế giới hôm nay”. Nội dung đức tin mà Giáo Hội đón nhận, sống và chuyển tải cung cấp cho chúng ta nhiều khuôn mặt trẻ được Thiên Chúa kêu gọi để thực thi chương trình của Người đối với gia đình nhân loại và toàn thể thế giới thụ tạo. Theo dòng lịch sử, Giáo Hội luôn quan tâm đến các bạn trẻ, bởi họ luôn là thành phần làm cho Giáo Hội sống động và phát triển không ngừng. Những mẫu gương trẻ trong mặc khải Kinh Thánh và đời sống Giáo Hội có thể ví như là những ngọn hải đăng giúp con thuyền Giáo Hội vượt qua sóng gió của biển đời tăm tối.

Từ những thập niên hậu bán thế kỷ XX tới nay, thế giới biến chuyển mau chóng và ảnh hưởng tới tất cả mọi người, nhất là các bạn trẻ, những người đầy sức sống và khả năng sáng tạo, nhưng đồng thời, cũng là những người dễ bị tổn thương trong thế giới toàn cầu hóa, thế giới kỹ thuật số và thế giới ảo. Những dấu chỉ của thế giới hôm nay vô cùng phong phú, đa dạng và lắm sắc màu. Giáo Hội được mời gọi đọc những dấu chỉ đó dưới ánh sáng mặc khải Thiên Chúa. Nhờ đó, Giáo Hội nhận ra thánh ý Thiên Chúa trong khi diễn tả chính mình như là thực thể phản chiếu ánh sáng Thiên Chúa cho tất cả mọi người.

Sự đồng hành và chăm sóc mục vụ giới trẻ của Giáo Hội đặt nền tảng trên khuôn mẫu Đức Giêsu trong hành trình trần thế, trong đó, biến cố gặp gỡ giữa Đức Giêsu Phục Sinh và hai môn đệ trên đường Emmau là điển hình (Lc 24,13-35). Ba thì của biến cố này là (a) chia sẻ Lời Chúa, (b) cử hành Bí Tích Thánh Thể, và (c) loan báo Tin Mừng, cũng là ba thì chính của đời sống Giáo Hội, đời sống các Kitô hữu và đời sống các bạn trẻ. Giáo Hội vững tin rằng, trong Chúa Thánh Thần, Đức Giêsu Phục Sinh luôn đồng hành với Giáo Hội, với các thành phần Dân Chúa và với các bạn trẻ, như Người đã đồng hành với hai môn đệ trên đường Emmau sau khi Phục Sinh.

Là bí tích, nghĩa là dấu chỉ và khí cụ của Đức Giêsu, Đấng Trẻ Trung Muôn Đời, Giáo Hội luôn là Giáo Hội trẻ cho những người trẻ. Giáo Hội trẻ cũng là Giáo Hội đồng nghị (the Synodal Church), là Giáo Hội mà tất cả mọi người được mời gọi “đi cùng con đường” (σύνοδος, synodos), cùng tham gia, đóng góp phần mình xây dựng Nhiệm Thể Đức Kitô ở trần gian này. Giáo Hội đồng nghị mời gọi con cái mình luôn trở về, luôn tìm hiểu, luôn trả lời, luôn thay đổi, luôn tiến tới trong tâm tình vâng phục, phó thác cho tình yêu Thiên Chúa và lòng nhân hậu của Người. Để công việc mục vụ giới trẻ đem lại hiệu quả hơn, Giáo Hội không chỉ dạy dỗ, hướng dẫn các bạn trẻ, mà còn đồng hành, lắng nghe, đối thoại và học hỏi từ các bạn trẻ nữa.

Trong nhãn quan của Giáo Hội, hướng mục vụ giới trẻ nhằm tạo điều kiện cho họ nhận thức rằng Giáo Hội tiếp tục Biến Cố Đức Giêsu Kitô ở trần gian. Do đó, sứ mệnh của Giáo Hội là quy tụ tất cả mọi người trong gia đình nhân loại cho Thiên Chúa. Giáo Hội giúp các bạn trẻ hướng về tương lai với niềm hy vọng vững chắc vào tình yêu Thiên Chúa được thực hiện qua Đức Giêsu Kitô, Đấng Hy Vọng. Trong Người, tất cả được giao hòa, được biến đổi, được hoàn thiện. Trong Người, khát vọng sâu xa nhất của con người là bình an đích thật, tình yêu tuyệt đối và sự sống vĩnh cửu trở thành hiện thực.

Trích Tập san Hiệp Thông / HĐGM VN, số 118 (tháng 5 & 6 năm 2020)

Nguồn: https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/nhan-quan-giao-hoi-ve-gioi-tre-trong-the-gioi-hom-nay-40454