Ý cầu nguyện tháng

- Ý CẦU NGUYỆN THÁNG 10:

Cầu cho sứ vụ của người giáo dân trong Giáo Hội:
Xin cho các Kitô hữu giáo dân, cách riêng là phụ nữ, khi đã lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, có thể tham gia nhiều hơn vào các cơ quan hữu trách của Giáo Hội.

Thứ Sáu, 30 tháng 9, 2016

CHÚC MỪNG LỄ THÁNH TÊRÊSA - Bổn mạng Giáo khu 3 và Ca đoàn Têrêsa

Kết quả hình ảnh cho thánh têrêsa hài đồng giêsu?

Têrêsa Hài Đồng Giêsu sinh năm 1873, qua đời năm 1897, quả là một vị thánh rất trẻ, chỉ sống được 24 tuổi đời. Một vị thánh rất hợp thời. Một vị thánh rất gần với chúng ta. Cũng là một trong những khuôn mặt lớn của Giáo Hội công giáo, đã được Đức Piô XI tôn phong làm Bổn Mạng các xứ truyền giáo, ngang hàng với thánh Phanxicô Xaviê của mấy thế kỷ trước. Thánh nữ được phong tiến sĩ Hội Thánh 1997.
Trong đêm thứ sáu Tuần Thánh năm 1896, chị bị ho ra máu lần đầu tiên. Mười tám tháng cuối cùng là một cuộc tử đạo triền miên. Chị qua đời ngày 30.9.1897, hưởng dương 24 tuổi, với tiếng thì thào : “Lạy Chúa, con yêu Chúa !”
Chúng ta biết được con đường nội tâm của thánh nữ nhờ vào quyển “Lịch sử một tâm hồn” và “Các lời nói” do bà chị ruột cũng là bề trên sưu tập. Têrêsa đi vào cái trọn vẹn, cái vĩ đại : chị muốn yêu mến Chúa Giêsu hơn bất cứ ai trên thế giới ; chị muốn dâng mình cho tình yêu nhân từ của Chúa như của lễ toàn thiêu ; chị muốn yêu tất cả mọi người, như Chúa Giêsu đã yêu. Chống lại kiêu ngạo, chị luôn nhận thức mình hoàn toàn bất lực và nếu có làm được gì, đó là do sức mạnh tình yêu của Chúa ban cho.
Đức ái đã cho Têrêsa chìa khóa, để tìm ra ơn gọi và chỗ đứng của chị trong Hội thánh.
Nên thánh bằng đường thơ ấu thiêng liêng
Từ trước tới nay, chúng ta cho việc nên thánh là khó và chỉ có những linh hồn đặc biệt mới nên thánh được, vì các thánh đã nên thánh bằng những cách thức khác nhau, nhưng cách nào cũng khó khăn, vượt trên khả năng của chúng ta. Nhưng nay thánh nữ đã vạch cho chúng ta con đường mới để nên thánh, đó là “đường thơ ấu thiêng liêng”.
a) Con đường mới
Chúng ta gọi là con đường mới vì con đường nên thánh này khác hẳn với lối nên thánh cổ truyền mà chúng ta đã biết. Con đường này có những đặc tính tiêu cực và tích cực như ta sẽ thấy dưới đây. Dù tích cực hay tiêu cực, nó cũng khác với đường lối xưa và thích hợp cho hết mọi người để nên thánh. Chúng ta có thể nói được rằng đây là con đường nên thánh của thời đại mới, của thế kỷ 20.
Về phương diện tiêu cực, ta thấy Đường thơ ấu thiêng liêng này có những đặc điểm sau đây:
+ Không có những việc hãm mình kỳ lạ
Ngày xưa, các thánh được kể lại bằng những câu chuyện về việc hy sinh hãm mình của các ngài. Và ngày nay trong giới giáo hữu thơ ngây, đôi khi người ta còn thích đồng hóa sự thánh thiện anh hùng với những việc khổ hạnh đẫm máu. Đối với họ, một vị thánh tức là một người không ăn, không uống, không ngủ, kiệt sức vì thức khuya, vì đánh tội đủ mọi cách và hủy diệt hay hành hạ thân xác trong những công việc nặng nhọc để chỉ lo nghĩ đến việc rỗi linh hồn. Không còn sự sai lầm nào tác hại hơn ! Một số đông tín hữu nghĩ mình không thể nên trọn lành được vì không thể ăn chay, không thể thức khuya và không thể mặc áo nhặm.
Riêng vị đại thánh thành Lisieux, chị đã nhất định gạt bỏ những điều mà thánh nữ quen gọi là “những khổ hạnh của các thánh nhân”. Hơn thế, chị còn tỏ thái độ đối lập rõ rệt, ngoại trừ vài rường hợp đặc biệt. Thoạt đầu Têrêsa đã tưởng là phải dấn thân vào con đường khổ hạnh vượt sức mình ấy... Không cần bàn cãi, nhiều bản văn đã chứng tỏ thánh nữ đã loại ra khỏi đường thơ ấu thiêng liêng của Ngài những hãm mình phạt xác kỳ lạ và những lối quá khổ hạnh của các thánh. (Philipon. Op, Sứ điệp của thánh Têrêsa thành Lisieux)
+ Không có những đặc ân thần bí
Nơi Têrêsa Hài đồng hoàn toàn không có xuất thần, dấu thánh, thị kiến, trừ qủi hay phép lạ. Con người cần phải trở nên nhà pháp thuật kỳ tài nhất của “thế hệ tận hiến” lại không thực thi một dấu lạ nào trong đời sống. Điều này là điều trái ngược với đa số tiểu sử các thánh, chỉ dựa trên những ân thần bí thuộc đủ mọi loại : xuất thần, thị kiến, m ạc khải, in dấu thánh, thần thuật trừ qủi, có thiên thần hiện ra, hiểu biết mọi tâm hồn. Ơn nói tiên tri và làm phép lạ...
Thật ra chúng ta cũng tìm ra những dấu vết, những hiện tượng lạ thường, ít ra là năm sáu hiện tượng nếu để ý quan sát đời sống thánh nữ . Nhưng nhiều nếp sống tầm thường cũng có thể có bằng ấy hiện tượng lạ ! Những bằng chứng nêu lên trong tòa án phong thánh đủ để các khía cạnh tiêu cực này, khía cạnh rất đặc sắc về sự thánh thiện của Têrêsa Hài đồng.
+ Không có phương pháp cầu nguyện
Đời sống cầu nguyện là linh hồn của việc tu đức cho nên vấn đề chúng ta đề cập ở đây thật quan trọng. Nó mạc khải cho chúng ta cái bí thuật kết hợp với Thiên Chúa của các thánh hơn tất cả yếu tố khác.
Chị Têrêsa Hài đồng đã đọc đi đọc lại trong các tác phẩm của Mẹ thánh những đoạn viết rất hay về các điểm : cầu nguyện bằng lời, cầu nguyện bằng trí, cầu nguyện tâm niệm, cầu nguyện tĩnh niệm, cầu nguyện kết hợp. Theo thánh Têrêsa Avila, người cải tổ có công nhất của dòng Kín,” cầu nguyện là tất cả”. Theo Mẹ thánh, bảy nơi ở các linh hồn cũng là bảy bậc thang chính của đời sống cầu nguyện và kết hợp, kể từ những hình thức sơ luợc của sự cầu nguyện hoạt động, đến những phân tích tỉ mỉ về những bậc sống cao siêu trong hôn ước thiêng liêng. Nơi Têrêsa Hài đồng không có một dấu vết của một cấp bậc, một tầng lớp, một thứ hạng nào nhất định ! Truyện Một tâm hồn không giống cuốn Lâu đài linh hồn, vì tuy hai thánh nữ cùng thuộc về một dòng nhưng năng khiếu thiên phú rất khác nhau.
Về điểm căn bản của đời sống cầu nguyện này, cũng như của đời hy sinh khổ hạnh và những đặc ân thần bí, Têrêsa phải là khuôn mẫu thích hợp với “mọi linh hồn thơ ấu”. Phúc âm là linh hồn đời sống cầu nguyện của chị. Đối với chị và số đông linh hồn Kitô hữu, tìm về với Chúa bằng con đường thông thường, thì cầu nguyện phải là “một đà tiến của trái tim”, một cái nhìn ngây thơ hướng về trời, một tiếng gọi tri ân và yêu mến, thốt ra trong cơn thử thách cũng như giữa lúc an vui; nghĩa là một sự gì cao thượng siêu nhiên, có sức phấn khởi linh hồn và nối kết linh hồn vơi Thiên Chúa.
+ Không có những hoạt động hiển hách
Giữa lớp người có “thế lực hoạt động và ăn nói” có nhiều vị hiển thánh đã sống theo hình ảnh của Thầy chí thánh. Chính các ngài có công rất nhiều trong việc thực hiện những tổ chức cơ sở bác ái, đã có ảnh hưởng sâu xa trong việc hướng dẫn vận mạng quốc gia và xã hội. Chúng ta phải ngỡ ngàng trước thánh Albertô cả, trước sự thông thái phi thường của thánh Augustinô, và thánh Tôma Aquinô... trước chiến công lẫm liệt của thánh nữ Jeanne d’Arc, trước sức mạnh của lời rao giảng và những phép lạ huy hoàng của thánh Vinh sơn Phêriê, trước lòng nhiệt thành truyền giáo của thánh Phanxicô Xaviê, và sau cùng hoạt động cảm hóa dân chúng bằng gương sáng của cha sở họ Ars... Chúng ta còn có thể kể những bằng chứng rõ ràng của các nhà truyền giáo và các thánh tử đạo, của một số lớn các vị lập Dòng. Đời sống thánh thiện của các ngài vẫn còn sáng chói như một thành quả vô song của nhân loại.
Trái lại, trong cuộc sống âm thầm của chị dòng Kín thành Lisieux không có lấy một hoạt động hiển hách hay một công trình bên ngoài nào. Ngay ở toà án phong thánh, chỉ vỏn vẹn một trang kể lại những việc làm nhỏ mọn của chị trong suốt đời dòng kín : lần lượt chị đảm nhận chu đáo những việc nhà giặt, phòng ăn, phòng khách và giữ cửa. Nhiệm vụ đáng chú ý nhất của chị là – chức vụ không được chỉ định rõ – làm phụ tá coi sóc ba hoặc bốn chị đệ tử và tập sinh khó tính. Sống với các chị này, Têrêsa phải luôn luôn cố gắng tận tụy và giữ thái độ cởi mở vui tươi.
Người ta đã lầm trước sự tương phản giữa vẻ tầm thường của những việc Têrêsa làm hằng ngày với sự trọn hảo thần linh thánh nữ dùng để kiện toàn công việc thường nhật ấy. Rồi người ta có thể tự hỏi xem ngoài tấm gương trinh nữ Nazareth, còn có mẫu đời nào cũng siêu vời thánh thiện như những công việc bên ngoài rất tầm thường như thế không ?
b) Đặc tính của con đường mới
Trong các đặc tính của con đường thơ ấu thiêng liêng của thánh nữ, ta thấy có mấy đặc tính nổi vượt, đó là : bé nhỏ, đơn sơ, khiêm nhường và vui vẻ chấp nhận mọi hy sinh gian khổ.
+ Bé nhỏ, đơn sơ, khiêm nhường
Thánh nữ luôn suy niệm lời Chúa với câu :”Hãy học cùng Thầy vì Thầy hiền lành và khiêm nhường trong lòng”. Với một trực giác kỳ lạ về địa vị thiết yếu của đức khiêm nhường trong đời sống thiêng liêng, thánh Terêsa đã nhấn mạnh về sự thực hành nhân đức này. “Hãy luôn sống như trẻ thơ” theo ý muốn của Chúa Giêsu trong Phúc âm, Ngài chẳng muốn nói với ta rằng :”Nước Trời thuộc về người giống như trẻ nhỏ” sao ? Người có đặc ân của Chúa Giêsu là kẻ bé thơ.
Tự đáy lòng, Têrêsa cảm thấy rằng chướng ngại đầu tiên và lớn nhất của sự thánh thiện là tính kiêu ngạo. Kẻ thù mạnh nhất của chúng ta là bản ngã riêng của ta. Để đưa ta đến sự trọn lành, ta quá tin tưởng vào sức riêng và tưởng phải làm những việc kỳ lạ, cho đến khi sa ngã, ta mới có kinh nghiệm là mình bất lực và hư vô. Chỉ lúc đó ta mới hiểu lời Thầy Chí thánh “Không có Thầy các con không thể làm gì được”. Trẻ nhỏ đã ý thức được sự yếu hèn của mình, nó cảm thấy mình nghèo khó, thiếu thốn mọi sự và hoàn toàn lệ thuộc.
Chiếm hữu được chân lý nền tảng này, thánh nữ đã lấy TRẺ THƠ làm mẫu mực cho đến cuối đời.
Chị hướng dẫn các linh hồn đến sự thánh thiện là bằng đức tính khiêm nhường như Chúa đã chẳng nói :”Kẻ giống trẻ nhỏ sẽ lớn nhất trong nước trời” sao ? Và khi người ta bảo rằng điều đó không hợp với mọi người, Têrêsa trả lời :”Nếu tôi chết lúc, tám, mười tuổi, nếu tôi ở trong nhiều tu viện, lãnh nhiều trách nhiệm, tôi cũng cảm thấy rõ ràng tôi vẫn nhỏ bé như ngày nay”. Người ta có thể được cất lên địa vị rất cao mà vẫn nhỏ bé trước mặt Thiên Chúa.
+ Từ bỏ mình
Thánh nữ quên mình đi, coi mình là hèn mọn hư vô và đặt tất cả sự tin tưởng của mình vào tình thương vô biên của Chúa. Người muốn sống để làm đẹp lòng Chúa, yêu mến và làm cho người ta yêu mến Chúa. Nhưng muốn được thế, thánh nữ đã sống hết sức quảng đại đối với Chúa, đã từ bỏ mình đi để sống cho Chúa và với chị em. Thánh nữ luôn ví mình như bông hoa hồng được dâng tiến Chúa :
Chúa ơi, này đóa hoa hồng,
Trên bàn thờ Chúa hương nồng sắc tươi,
Con đây mơ ước này thôi :
Tách từng cánh một, Chúa Trời, hiến dâng.
Thánh nữ đã cảm nghiệm thấy lời Chúa “Nếu ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá hằng ngày mà theo Ta” là cần thiết, nên việc cắt tỉa ý riêng mình là cần thiết để cho phù hợp với ý Chúa. Người làm vườn mà vì thương hại cây hồng không muốn bạo tay cắt những cành sâu đi, thì không phải là một người làm vườn khéo : cây hồng được “nuông chiều” như thế cũng không thể nở hoa được ... Người không muốn quên mình cũng không bao giờ có ý chí vững chắc.
Người ta nói : 3 với 4 là 7, có đúng không ? Chưa đúng. Muốn thực hiện 3 với 4 là 7 thì phải làm sao cho tan rã hai con sô 3 và 4, rồi đúc nó lại thành con số 7 mới được. Chớ cứ để 3 với 4 kề nhau mãi thì làm sao thành 7 được, mà vẫn là 3, 4. Thánh Têrêsa đã biết quên mình đi, hòa tan ý riêng của mình vào thánh ý Chúa để hoàn toàn sống cho Chúa và chỉ làm những điều gì Chúa muốn.
Sự từ bỏ mình đã thúc đẩy Têrêsa yêu mến thánh giá như ngài đã viết trong Một tâm hồn :”Khi ai muốn đạt tới đích kỳ vọng, dĩ nhiên người ấy phải dùng phương thế, Đức Giêsu đã cho con biết phương thế cứu rỗi các linh hồn là THÁNH GIÁ, cho nên càng gặp nhiều thánh giá, lòng ái mộ, chịu đau khổ của con càng thêm nồng nàn hăng hái. Trong 5 năm qua, con đã bước đi con đường ấy, con đi thì con biết, chớ chẳng ai biết con đi. Ấy chính là một hoa mọn mọc nơi xó xỉnh chẳng ai thèm biết tới mà con muốn dâng tiến Chúa đấy. Hoa mọn này còn chút hương thơm nào, chỉ bốc theo đường thẳng lên trời thôi”. (Một tâm hồn, tr 132)
+ Chấp nhận trong vui tươi
Đường lối nên thánh của thánh nữ gạt bỏ tất cả những việc hãm mình lớn lao mà mình tự tạo ra, trái lại, Têrêsa chỉ cố gắng chấp nhận tất cả mọi sự việc trong hiện tại, dù muốn hay không. Thái độ đó là thái độ CHẤP NHẬN. Nhưng chấp nhận có thể là thái độ chấp nhận miễn cưỡng hay tự ý, vui tươi hay rầu rĩ ! Đối với thánh nữ, việc gì xẩy đến cũng là do thánh ý Chúa, cho nên Ngài nhận lấy cách thực tình và vui tươi. Tinh thần vui tươi phấn khởi trước những hy sinh còn được thánh nữ ghi lại trong nhiều vần thơ :
Nếu Chúa chẳng đoái hoài ve vuốt,
Con vẫn tươi cười trước khổ đau.
Mỉm cười với Chúa tôi thờ,
Đó là thiên quốc thỏa mơ ước rồi.
Thiết tưởng không cần làm gì thêm để hãm mình, để nên thánh, cứ vui lòng chấp nhận cảnh sống hiện tại với muôn vàn việc xẩy đến vui cũng như buồn, vừa ý cũng như trái ý. Nên thánh ở chỗ chấp nhận mọi hy sinh đau khổ mà nét mặt vẫn vui tươi, không cho ai biết mình đang phải đau khổ. Chính Terêsa ở vào trong hoàn cảnh đó : ai cũng cho là Têrêsa sung sướng vì có chị làm Mẹ Bề trên chắc chắn được nuông chiều, hơn nữ nét mặt của Têrêsa lúc nào cũng tỏ ra vui tươi hớn hở ; nhưng Têrêsa cho biết : chính cái đó cũng làm cho mình đau khổ thêm mà không ai biết.
THẦN HỌC VỀ SỰ BÉ NHỎ
Thiên Chúa đã chọn những gì bé nhỏ, yếu hèn. Nhìn sâu vào mầu nhiệm nhập thể, mầu nhiệm thánh giá, mầu nhiệm Thanh Thể, chúng ta thấy Thiên Chúa đã chọn những con đường rất khiêm hạ. Thiên Chúa mặc khải chính mình trong những hình thức không chút gì là quyền lực. Chúa mặc khải tình yêu của Ngài. Tình yêu là một sức mạnh mà không một phạm trù nào về quyền lực có thể diễn tả được, nhưng lại rất hùng hồn khi tự hạ hy sinh.
Chúa chọn những sứ giả tình yêu để họ cộng tác vào việc xây dựng Nước Tình Yêu của Ngài. Đây cung là những chọn lựa do lòng thương xót của Ngài, chứ không do công phúc và áp lực của bất cứ ai. Ngài có thể chọn những con người bé mọn yếu hèn. Trong cuốn Tự Thuật, Têrêsa kể lại: Một hôm, trong phòng, Têrêsa tình cờ mở Phúc Âm và gặp ngay đoạn viết : "Chúa Giêsu lên núi, Ngài kêu gọi những kẻ Ngài muốn; và họ đã đến với Ngài" (Mc 3, 13). Đó là mầu nhiệm ơn gọi của tôi… Chúa đã không gọi những người xứng đáng, nhưng kêu gọi những người Chúa muốn, như thánh Phaolô đã viết : "Chúa thương xót những người Chúa ưa thích và Chúa xót thương kẻ Chúa muốn xót thương. Như thế sự được ơn không phải là công trình của kẻ muốn hoặc kẻ chạy chọt, nhưng là của Chúa thương xót mà thôi" (Rm 9, 15-16).
Têrêsa rất ý thức chân lý đó, Ngài còn đi xa hơn, khi khẳng định rằng: Chúa thương Ngài không phải vì Ngài có công phúc gì, mà chính sự yếu đuối bé nhỏ của Ngài. Hơn nữa Têrêsa còn quả quyết : "Cuối đời, con sẽ tay không ra trước mặt Chúa. Bởi vì lạy Chúa, con không xin Chúa đếm các việc con làm. Con biết tất cả các việc công chính của chúng con đều mang vết nhơ trước mặt Chúa." Têrêsa nhận biết sự khó nghèo thiêng liêng và bé nhỏ của mình, ngài chỉ trông cậy vào ơn thương xót Chúa mà thôi.
Qua thánh nữ Têrêsa, Chúa đang kêu gọi mọi người, nhất là những người tự mãn cho mình là đạo đức, hãy trở về tinh thần khiêm tốn, khó nghèo và bé mọn. "Ai hạ mình xuớng như trẻ này, người ấy là kẻ lớn nhất trong nước Thiên Chúa" (Mt18, 4). Lời Chúa trên đây ghi lớn trên trần nhà nguyện Dòng kín Carmel là một bài thần học rất quan trọng cho Hội Thánh tương lai.
Kết luận
Têrêsa đã vui lòng chịu đau khổ trong tăm tối bởi vì Ngài đã nhận ra rằng trong nhiều cách Ngài rơi vào cảnh tăm tối mà trong đó có nhiều thử thách vây kín. Ngài nhận ra với những người không tin, những người mà Ngài gọi là “anh chị em” của Ngài, gần gũi họ hơn nữa. Ngài đã làm cho nhận thức của Ngài đối về họ cách rõ ràng hơn trong câu chuyện về một vương quốc tăm tối, đã không nhận ra Vua của Ánh Sáng đã đến ở giữa họ trong 33 năm:
Lạy Chúa, con cái Chúa đã hiểu về ánh sáng thánh thiêng của Ngài và xin Ngài tha thứ cho những anh chị em đó. Thiên Chúa đã trao cho Thánh nữ chén đắng; Ngài đã không ước mong được thoát khỏi những đắng cay mà Thiên Chúa dành cho những tội nhân đáng thương phải chịu. Ngài không thể nói là nhân danh cá nhân Ngài mà là nhân danh những anh chị em của Ngài, “Xin thương xót con cùng, lạy Chúa, vì chúng con là những tội nhân đáng thương”. Ôi! Lạy Chúa đừng xét xử chúng con. Có thể tất cả những ai mà không được ngọn lửa đức tin soi sáng thì một ngày nào đó sẽ được ánh sáng chiếu soi. Ôi lạy Chúa Giêsu! Nếu cần thiết thì xin Ngài hãy thanh tẩy những kẻ gây ra tội lỗi vì một linh hồn yêu mến Ngài, kế đến con ước ao được đón nhận thử thách vì những lỗi lầm đó đến khi mà Chúa sẵn sàng mang con đi vào trong vương quốc Ánh sáng của Ngài. Ân sủng duy nhất con van xin Ngài đó là đừng để con bao giờ xúc phạm đến Ngài.
Têrêsa thật sự là một vị thánh thời đại, là một mẫu gương của thời đại – bởi vì Ngài đã chết trong sự tăm tối của ngờ vực mà nhiều người đương thời của Thánh nữ đã lạc lối. Thánh nữ sẵn sàng vào cõi âm ti nếu Thiên Chúa được tán dương ở đó. Những lời cầu nguyện của Thánh nữ đã được đáp trả. Nhưng địa ngục mà Thiên Chúa đã cho Thánh nữ chính là cơ hội để công bố lòng tin và tình yêu của Thánh nữ là khía cạnh tăm tối trong thời đại của Ngài.
Đường Thơ Ấu Thiêng Liêng
Một hôm nhà đạo sĩ Beroca cùng với người môn đệ là Elia bước ra khỏi trại, nhà đạo sĩ đưa mắt nhìn ra đám đông người, giữa khu phố ồn ào náo nhiệt, rồi lên tiếng hỏi môn đệ: Con nghĩ sao giữa những người bon chen nơi phố chợ này? Sẽ có ai được hưởng hạnh phúc đời đời trên thiên đàng không?
Thoạt đầu Elia lắc đầu bi quan trả lời là: không có ai cả. Một lúc sau người môn đệ đưa tay chỉ về phía hai người đang đứng đó và nói: thưa thầy, con nghĩ rằng hai người này thế nào cũng sẽ được chia sẻ phần hạnh phúc đời đời.
Nhà đạo sĩ cho gọi hai người ấy đến và hỏi xem họ làm nghề gì?
Họ thưa: thưa thầy, chúng con chỉ biết làm nghề mua vui cho người ta thôi. Khi thấy ai buồn sầu, chúng con tới làm cho họ vui lên. Khi họ gây lộn cãi vã nhau, chúng con tìm mọi cách giúp họ làm hòa và sống an bình với nhau hơn. Chúng con không biết làm gì hơn ngoài những việc nhỏ mọn như thế thôi.
Nhà đạo sĩ trả lời: các anh nói rất đúng, vì những việc các anh làm tuy bé nhỏ nhưng thực sự lại rất lớn lao, bởi vì chính Chúa Giêsu đã nói: "Ai không trở nên đơn sơ bé nhỏ sẽ không được vào Nước Trời".
Thiên Chúa là Cha nhân từ giàu lòng xót thương, không những với các tội nhân mà thôi, Ngài còn đặc biệt để mắt nhân từ đến với những tâm hồn đơn sơ, những người hèn hạ hoặc bị khinh dể ít được ai biết tới, nhất là các trẻ nhỏ. Ngài là Cha nhân từ không muốn cho một ai trong những kẻ bé nhỏ phải hư mất. Chính Chúa Giêsu lại còn đồng hóa mình với những kẻ bé nhỏ thấp hèn và còn quả quyết rằng: "Mỗi lần các con làm một việc tốt lành cho những người bé nhỏ nhất, tức là làm cho chính Chúa vậy. Trái lại, khi ta từ chối không làm một điều tốt lành cho người bé nhỏ nào thì cũng không làm cho Chúa vậy". Vì thế Chúa Giêsu cảnh cáo và nhắc nhở ta đừng bao giờ khinh dể những người bé mọn, cũng chớ làm gương xấu cho trẻ nhỏ. Bởi vì họ là những người gần gũi Thiên Chúa và được Ngài yêu thương cách đặc biệt.
Trong xã hội hưởng thụ, những người bị khinh thường coi rẻ hơn cả là những người thấp kém về tuổi tác, văn hóa, khả năng, tiền bạc, bằng cấp... Nhưng đối với Chúa Giêsu thì hoàn toàn trái ngược, tiêu chuẩn và cái nhìn của Chúa không phải là tiêu chuẩn và cái nhìn thiển cận của loài người. Những người bé mọn lại là những người được Thiên Chúa Cha yêu thương và mạc khải cho những sự khôn ngoan, cho họ hiểu biết những điều bí nhiệm mà sự khôn ngoan thế gian không thể nào hiểu biết được.
Chúa Giêsu tự coi mình là người bé mọn và tự đồng hóa mình với họ, nên Ngài đã sung sướng thốt lên rằng: "Lạy Cha, Con cảm tạ Cha vì đã giấu không cho những kẻ thông thái mà lại cho những kẻ bé mọn hiểu được những điều bí nhiệm về Nước Trời. Vâng lạy Cha, vì đó là Thánh Ý Cha..." (Mt 11,25-26; Lc 10,21-22).
Những người bé mọn Chúa Giêsu muốn nói tới đây là ai? Phải hiểu sự bé mọn ấy như thế nào? Bé mọn về thể xác hay về sự hiểu biết hoặc về tinh thần? Sự bé mọn về thiêng liêng có ý nghĩa gì?
Những Kẻ Bé Mọn Là Ai?
Có thể nói được rằng sự bé mọn mà Chúa Giêsu nói tới trong Phúc Âm, thực thi tới mức hoànhảo trong đời sống. Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã được Giáo Hội chính thức nhìn nhận và nhiều người trong chúng ta đã được nghe biết tới. Hơn nữanhân ngày truyền giáo thế giới 19/10/1997, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nâng thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu lên bậc Tiến Sĩ Giáo Hội, như thánh nữ Catharine vàthánh nữ Têrêsa Avila.
Với tước hiệu này, Giáo hội chính thức nhìn nhận thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu thuộc vàonhững tâm hồn đơn sơ bé nhỏ, nhưng được Thiên Chúa kén chọn và tỏ lộ cho những điều vượt xa tầm hiểu biết trí khôn loài người, như lời thánh Tông Đồ Phaolô quả quyết rằng: "Phần chúng ta, chúng ta đã không lãnh nhận thần khí của thế gian, nhưng là Thần Khí phát xuất từ Thiên Chúa để nhận biết những ân huệ Thiên Chúa đã ban cho chúng ta. Để nói về những điều đó, chúng tôi không dùng những lời lẽ khôn ngoan đã học được nơi trí khôn loài người, nhưng dùng những lời lẽ học được nơi Thần Khí. Chúng tôi dùng những lời lẽ Thần Khí để diễn tả những thực tại thuộc Thần Khí".
Thật vậy, thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã có một tâm hồn đơn sơ hồn nhiên, đã có thể nói lên rằng: "Trong Phúc Âm, thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã tìm thấy mọi chân lý và sự thật". Cũng nhờ Phúc Âm mà người đã khám phá ra những khámphá mới ẩn giấu trong Phúc Âm.
Thánh nữ viết: "Theo thiển nghĩ của tôi thì tất cả mọi người cảm nhận được những gì ThiênChúa đã ban tặng cho tôi, thì quả thật Thiên Chúa không còn phải là ông vua đáng phải khiếp sợ nữa, nhưng trái lại là người Cha đáng mến vô cùng và sẽ không còn dám làm điều gì xúc phạm đến Người nữa. Tuy nhiên tôi vẫn biết rằng không phải mọi người đều giống hệt nhau cả, mỗi người đều có một đặc điểm cá biệt để nói lên sự hoàn hảo muôn hình vạn trạng của Thiên Chúa, và đồng thời cũng là dịp tốt để mỗi người một cách và tất cả mọi người cùng hiệp lời ca ngợi sự thánh thiện khôn ngoan của Thiên Chúa cách phong phú dồi dào hơn. Riêng đối với tôi, Ngài đoái thương cho tôi cảm nghiệm được lòng nhân từ yêu thương vô biên của Ngài, và cũng nhờ đó tôi được dịp chiêm ngắm và tôn thờ những sự hoàn hảo thánh thiện khác của Ngài nữa. Đối với tôi tất cả đều tỏa sáng sự khôn ngoan, tình thương vô biên của Chúa, ngay đến sự công minh chính trực của Chúa cũng chỉ là sự công chính của tình yêu mà thôi".
Hiểu Sự Bé Mọn Ấy Như Thế Nào?
Sự hiểu biết về lòng nhân từ xót thương của Chúa không phải chỉ là sự hiểu biết của trí khôn trên bình diện hiểu biết mà thôi, nhưng thực sự là kinh nghiệm sống trong cuộc sống cá nhân của Người. Đặc biệt hơn cả là sức mạnh của ơn thánh đã được cảm nghiệm năm Têrêsa lên mười bốn tuổi.
Khi còn nhỏ Têrêsa vốn là cô bé được nuông chiều, nên thường nương theo bản tính ích kỷ dễ hờn giận. Lớn lên Têrêsa dần dần được thay đổi và trưởng thành hơn về mặt tình cảm.
Một biến cố đã thay đổi hẳn cả hướng đi cuộc đời của Têrêsa. Hôm đó là ngày lễ sinh nhật (năm 1886), Têrêsa được ơn Chúa thúc đẩy và soi sáng cho thấu hiểu cách sâu xa hơn về mầu nhiệm Giáng Sinh, Con Một Chúa quyền phép vô cùng, nhưng chỉ vì tình yêu nhân loại đã muốn mặc lấy thân phận con người thấp hèn như tất cả mọi người, ngoại trừ tội lỗi.
Tất cả mầu nhiệm như một luồng ánh sáng soi chiếu cả cuộc sống Têrêsa, chính trong sự yếu ớt của đứa bé thơ sinh nằm trong máng cỏ hèn hạ của loài súc vật, Têrêsa cảm thấy được mặc cho một sức mạnh phi thường. Từ ngày đó, Têrêsa bắt đầu đi từ chiến thắng này đến chiến thắng khác trong việc khắc phục những tính hư nết xấu của mình. Têrêsa cũng ý thức được sự cao cả của ơn thánh mà Thiên Chúa đã ban cho người một cách nhưng không. Têrêsa hoàn toàn không có công trạng gì ngoài công nghiệp duy nhất là sự yếu hèn, nhưng đầy lòng tin tưởng phó thác của người. Vì thế Têrêsa có lý khi viết:
"Chính vì tôi bé mọn mà Cha là Thiên Chúa nhân từ đã cúi xuống trên tôi và chỉ bảo tôi những điều cao cả mầu nhiệm về tình thương Thiên Chúa. Nếu như các nhà thông thái thế gian trông thấy tôi, họ sẽ ngạc nhiên về những gì Thiên Chúa đã muốn tỏ lộcho một cô bé mười bốn tuổi như tôi về tình thương của Ngài. Đó là tất cả những điều bí ẩn mà sự khôn ngoan thông thái của họ cũng không thể nào hiểu được.Bởi vì để được hiểu biết những điều cao cả đó, trước hết họ cần phải có lòng đơn sơ và tinh thần khó nghèo bên trong".
Bé Mọn Về Thể Xác hay Về Sự Hiểu Biết Hoặc Về Tinh Thần?
Con đường nên thánh và đúc kết sự khôn ngoan của Têrêsa được gọi là Con Đường Thơ Ấu Thiêng Liêng. Đây không phải là sự thơ ấu khờ dại của đứa trẻ, cũng không phải là việc tầm thường hóa những giá trị Phúc Âm, trái lại Con Đường Thơ Ấu Thiêng Liêng của thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu, trước hết dựa trên thái độ khiêm tốn nội tâm, biết tự hạ chấp nhận thân phận thấp hèn trước mặt Thiên Chúa là Đấng Tạo Thành, đồng thời cũng là Cha nhân từ đầy lòng xót thương.
Đặc điểm trước tiên của con đường nên thánh của thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu là lòng tin tưởng phó thác. Đó là hoa trái của lòng trông cậy, như người con thơ chỉ biết đặt lòng tin cậy phó thác vào bàn tay chăm sóc của người Cha đầy tình yêu thương.
Từ sự tin tưởng vào tình thương cha mẹ và anh chị em trần gian nơi gia đình, Têrêsa tiến tới trong sự tin tưởng vào tình thương quan phòng của Thiên Chúa là Cha. Lòng tin tưởng đưa Têrêsa đến sự phó thác hoàn toàn trong tay Chúa về tất cả cuộc sống của người, không phải là thứ phó thác thụ động lười biếng một cách suy luận sai lầm của con người, nhưng là sự phó thác linh động, sẵn sàng thi hành tất cả những gì tình yêuChúa đòi hỏi, cả khi phải hy sinh với giá cao và chấp nhận từ bỏ những gì mình ưa thích nhất, nhưng có thể là sự nguy hiểm trong bước đường tiến tới sự kết hiệp thân mậtvới Chúa. Vì thế, tin tưởng phó thác là hoạt động của tình yêu, là cao điểm của lòng kính mến Chúa trên hết mọi sự, đồng thời cũng rất gần gũi với tha nhân để chia sẻ tình yêu Chúa đổ tràn trong tâm hồn mọi người, để lôi kéo người khác đến gần tình yêu Chúa hơn.
Ý Nghĩa Thiêng Liêng Về Sự Bé Mọn
Đây là bí quyết sức mạnh và hiệu lực Tông Đồ của thánh nữ, người được đặt làm quan thầy các vị thừa sai truyền giáo khắp nơi trên thế giới, mặc dù thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu không bao giờ bước chân ra khỏi bốn bức tường của Tu Viện và cũng không hề lên tiếng giảng dạy cho ai. Nhưng thánh nữ đã khôn khéo khám phá ra chỗ đứng của mình trong lòng Giáo Hội, chỗ đứng đó là tình yêu, là biết yêu thương, là hoàn toàn phó thác tin tưởng cho tình yêu thương của Thiên Chúa là Cha nhân từ đầy lòng xót thương.
Anmai CSsR
Nguồn: http://tgpsaigon.net/baiviet-tintuc/20110929/2455

Thứ Tư, 28 tháng 9, 2016

Người nghèo là trang chính của Tin Mừng luôn rộng mở trước mọi người

ĐTC Phanxicô nhận của lễ từ một gia đình giáo lý viên 
trong Ngày Năm Thánh các Giáo lý viên Chúa Nhật 25-9-2016 - REUTERS

Người nghèo là trang chính của Tin Mừng luôn rộng mở trước mọi người.Ông nhà giấu bị tật nguyền trầm trọng hơn ông Ladarô đầy vết thương, vì ông bị mù loà trong cuộc sống sung túc giầu sang của ông, nên không trông thấy ông Ladarô nghèo nằm ngay trước của nhà mình.

ĐTC Phanxicô đã nói như trên trong bài giảng thánh lễ Năm Thánh các Giáo lỳ viên cử hành trước thềm Đền thờ Thánh Phêrô lúc 10 giờ ruỡi sáng Chúa Nhật 25 tháng 9 hôm qua. Cùng đồng tế với ĐTC có 10 Hồng Y, 30 Giám Mục và 650 linh mục. Tham dự thánh lễ ngoài 15.000 giáo lý viên đến từ nhiều nước trên thế giới, kể cả Việt Nam, còn có hơn 30 ngàn tín hữu và du khách hành hương năm châu.

Như chúng tôi đã loan tin, từ chiều thứ sáu 15.000 giáo lý viên năm châu đã bắt đầu tham dự chương trình cử hành Năm Thánh, với các bài thuyết trình tại 4 nhà thờ ở Roma theo các thứ tiếng Bồ Đào Nha, Pháp, Anh và Tây Ban Nha. Ngày thứ bẩy các giáo lý viên đã chầu Mình Thánh Chúa và lãnh bí tích Hoà Giải tại 3 thánh đường gần Đền thờ Thánh Phêrô, và đi theo lộ trình “theo vết các thánh và các chân phước huấn giáo” trong đó có cả chân phước Anrê Phú Yên giáo lý viên. Chiều thứ bẩy đã có buổi hát kinh chiều và trình bầy chứng từ tại Đền thờ Thánh Phaolô ngoại thành.

Các bài sách Thánh trong thánh lễ đã được tuyên đọc bằng các thứ tiếng Anh và Tây Ban Nha. Thánh vịnh và Phúc Âm đã đuợc hát bằng tiếng Ý.

Giảng trong thánh lễ ĐTC mời gọi các giáo lý viên không mệt mỏi loan báo Chúa Kitô phục sinh là trung tâm điểm của đức tin kitô, sống chứng tá niềm hy vọng đem lại niềm vui, biết nhìn xa thấy rộng vuợt quá sự dữ và các vấn đề, đồng thời nhận ra và chú ý tới biết bao Ladarô thời nay, mau mắn trợ giúp và đáp ứng các nhu cầu của họ.

Quảng diễn lời thánh Phaolô căn dặn Timôthê “duy trì giới răn của Chúa nguyên tuyền không thể khiển trách được” (1 Tm 6,14), ĐTC nói thánh Phaolô chỉ nói đến một giới răn chứ không dặn phải chú ý tới nhiều điểm và nhiều khía canh. Xem ra ngài làm cho chúng ta gắn chặt cái nhìn vào điều nòng cốt của đức tin. Nòng cốt ấy là lời loan báo phục sinh: Chúa Giêsu đã sống lại, Chúa yêu bạn, Ngài đã trao ban cho bạn cuộc sống của Ngài; phục sinh, sống động Ngài ở bên cạnh bạn và chờ đợi bạn mỗi ngày. Áp dụng vào việc cử hành Năm Thánh các giáo lý viên ĐTC nói:

Trong Năm Thánh này của các giáo lý viên chúng ta được mời gọi không mệt mỏi đặt để ở hàng đầu lời loan báo chính yếu này của đức tin: Chúa đã sống lại. Không có các nội dung quan trọng hơn, không có gì vững chắc và thời sự hơn. Mỗi nội dung đức tin trở thành xinh đẹp, nếu gắn liền với trung tâm này, nếu được xuyên qua bởi mầu nhiệm phục sinh. Nếu bị cô lập hóa, nó mất đi ý nghĩa và sức mạnh. Chúng ta được mời gọi luôn luôn sống và loan báo sự mới mẻ trong tình yêu của Chúa: Chúa Giêsu thực sự yêu thương bạn, như bạn là. Hãy dành chỗ cho Ngài, mặc dù có các thất vọng và các vết thương của cuộc sống, hãy để cho Ngài có khà thể yêu thương bạn. Bạn sẽ không bị thất vọng đâu!”.

Điều răn mà thánh Phalô nói tới khiến cho chúng ta suy nghĩ tới điều răn mới của Chúa Giêsu: “Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con” (Ga 15,12). Chính trong khi yêu thương chúng ta loan báo Thiên Chúa-Tình Yêu: không phải do sức mạnh của việc thuyết phục, không bao giờ đưóc áp đặt sự thật, cũng không phải vì co cứng trong việc tuân giữ vài đòi buộc tôn giáo hay luân lý. Thiên Chúa được loan báo, khi chúng ta gặp gỡ các bản vị con người, chú ý tới lịch sử và con đường đời sống của họ. Vì Chúa không phải là một tư tưởng, nhưng là một Người sống động: sứ điệp của Ngài đi qua chứng tá đơn sơ và chân thật, với việc lắng nghe và tiếp nhận, với niềm vui dãi toả ra ngoài. Chúng ta không nói tốt về Chúa Giêsu, khi chúng ta buồn sầu; cũng không thông truyền vẻ đẹp của Thiên Chúa chỉ bằng các bài giảng hay. Thiên Chúa của niềm hy vọng được loan báo bằng cách sống Tin Mừng của tình bác ái ngày hôm nay, không sợ hãi làm chứng cho Ngài, cả với các hình thức mới mẻ.

ĐTC nói tiếp trong bài giảng thánh lễ Ngày Năm Thánh của các Giáo lý viên: Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay giúp chúng ta hiểu yêu thương có nghĩa là gì, nhất là giúp chúng ta tránh được vài nguy hiểm. Trong dụ ngôn có một người giầu, không nhận ra Ladarô, một người nghèo khổ “nằm trước cửa nhà ông” (Lc 16,20). Người giầu này, thực ra, không làm hại ai, cũng không bị nói là ngươi xấu. Nhưng ông có một tật nguyền lớn hơn tật nguyền của ông Ladarô, là người “đầy vết thương”: ông nhà giầu này bị mù trầm trọng, bởi vì ông không thể nhìn quá thế giới của mình, được làm bằng các bữa tiệc sang trọng và quần áo đẹp đẽ. Ông không trông thấy quá căn nhà của mình, nơi có Ladarô nằm, bởi vì ông không chú ý tới điều xẩy ra ở bên ngoài. Ông không nhìn với đôi mắt, bởi vì ông không cảm thấy trong con tim. Trong tim ông tinh thần thế tục đã bước vào và làm tê liệt linh hồn. Tinh thần thế tục giống như “một cái lỗ đen” nuốt trửng sự thiện, dập tắt tình yêu, vì nó nuốt mọi sự trong cái tôi của mình. Khi đó người ta chỉ trông thấy các dáng vẻ bề ngoài, và không nhận ra tha nhân, vì người ta trở thành dửng dưng với mọi sự. Ai bị bệnh mù trầm trọng này, thì thường có các thái độ “mắt lé”: nhìn các người danh tiếng, có địa vị cao được thế giới ngưỡng mộ với lòng kính trọng, mà không thèm nhìn biết bao nhiêu Ladarô này nay, không thèm nhìn các người nghèo túng và các người đau khổ, là những người được Chúa ưu ái.

Nhưng Chúa nhìn kẻ bị thế giới lãng quên và gạt bỏ. Ông Ladarô là nhân vật duy nhất được gọi tên trong tất cả các dụ ngôn của Chúa Giêsu. Tên của ông có nghĩa là “Thiên Chúa trợ giúp”. Thiên Chúa không quên ông, Ngài tiếp nhận ông vào trong tiệc của Nước Ngài, cùng với tổ phụ Abraham, trong sự hiệp thông phong phú của tình yêu thương. Trái lại, ông nhà giầu trong dụ ngôn cũng không có cả một tên gọi nữa; cuộc sống của ông bị rơi vào quên lãng, bởi vì ai sống cho chính mình thì không làm nên lịch sử. Nhưng một kitô hữu phải làm nên lịch sử! Họ phải ra khỏi chính mình, phải làm lịch sử! Nhưng ai sống cho chính mình, thì không làm lịch sử. Sự vô cảm ngày nay đào sâu các vực thẳm luôn mãi không thể vượt qua được nữa. Và chúng ta, trong lúc này, đã bị rơi vào căn bệnh này của sự thờ ơ, của ích kỷ, của tinh thần thế tục.

ĐTC nói thêm trong bài giảng: Còn có một chi tiết khác nữa trong dụ ngôn, một đối kháng. Cuộc sống sung túc của người không tên này được miêu tả như phô trương: tất cả nơi ông đòi hỏi các nhu cầu và quyền lợi. Trái lại, cái nghèo của ông Ladarô được diễn tả với phẩm giá cao: từ miệng ông không thốt ra các lời than van, phản đối hay khinh rẻ. Áp dụng vào cuộc sống giáo lý viên ĐTC nói:

Đây là một giáo huấn có giá trị: như là các người phục vụ lời của Chúa Giêsu chúng ta được mời gọi không phô trương bề ngoài và không tìm vinh quang; chúng ta cũng không được buồn sầu và than van. Chúng ta không phải là các ngôn sứ loan báo tai ương, ưa thích phơi bầy các nguy hiểm hay lệch lạc; không phải là người sống trong các hầm trú môi trường của mình, bằng cách đưa ra các phán đoán cay đắng liên quan tới xã hội, Giáo Hội, liên quan tới mọi sự và mọi người, bằng cách gây ô nhiễm thế giới với sự tiêu cực. Khuynh hướng nghi ngờ than vãn không phải là của người quen thuộc với Lời của Thiên Chúa.

Ai loan báo niềm hy vọng của Chúa Giêsu là người đem niềm vui và nhìn xa thấy rộng, có các chân trời, không có một bức tường khép kín họ, họ nhìn thấy xa, bởi vì họ biết nhìn xa hơn sự dữ và các vấn đề. Đồng thời họ nhìn rõ điều ở gần, bởi vì họ chú ý tới tha nhân và các nhu cầu của người khác. Ngày hôm nay Chúa hỏi chúng ta: trước biết bao Ladarô mà chúng ta trông thấy, chúng ta được mời gọi âu lo, tìm ra các con đường để gặp gỡ và giúp đỡ họ, mà không luôn luôn uỷ thác cho các người khác hay nói: “Ngày mai tôi sẽ giúp bạn. Hôm nay tôi không có giờ, ngày mai tôi sẽ giúp bạn”. Và điều này là một tội. Thời giờ mà chúng ta dành để cứu giúp các người khác là thời giờ dành cho Chúa Giêsu, là tình yêu tồn tại: nó là kho tàng trên trời, mà chúng ta chiếm hữu ở đây trên trái đất này.

Kết luận, các giáo lý viên và anh chị em thân mến, xin Chúa ban cho chúng ta ơn luôn luôn được canh tân mọi ngày bởi niềm vui của lời loan báo đầu tiên: Chúa Giêsu đã chết và đã sống lại. Chúa Giêsu yêu thương chúng ta cách cá biệt! Xin ngài ban cho chúng ta sức mạnh sống và loan báo giới răn của tình yêu, bằng cách vượt thắng sự mù loà của vẻ bề ngoài và các nỗi buồn thế tục. Xin Ngài khiến cho chúng ta nhậy cảm với người nghèo, họ không phải là phần thêm vào Tin Mừng nhưng là một trang chính , luôn luôn rộng mở trước mắt mọi người.

Các lời nguyện giáo dân đã được đọc bằng các thứ tiếng Bồ Đào Nha, Pháp, Thái Lan, Đức, và Tầu cầu cho các nhu cầu của Giáo Hội và thế giới. Lời nguyện tiếng Thái xin Chúa mở mắt người mù, soi sáng tâm trí của những người không tin, hoán cải con tim của những người tội lỗi và làm nảy sinh ra các giáo lý viên và những người loan báo Tin Mừng cứu độ. Hàng trăm linh mục đã giúp ĐTC trao Mình Thánh Chúa cho tín hữu.

Trước khi kết thúc thánh lễ ĐTC nói ngày hôm kia tại Wuersburg bên Đức cha Engelmarr Unzeitig thuộc dòng Thừa Sai Marienhill đã được phong chân phước. Ngài đã bị giết trong trại tập trung Dachau do sự thù ghét đức tin; ngài đã lấy tình yêu chống lại thù hận, sự dịu hiền chống lại tàn ác. Cầu mong gương của ngài giúp chúng ta là các chứng nhân của tình bác ái và niềm hy vọng cả giữa các khốn khó.

ĐTC cũng hiệp ý với các Giám Mục Mêhicô trong việc ủng hộ dấn thân của Giáo Hội và xã hội dân sự cho gia đình và sự sống, đang cần sư lưu tâm mục vụ và văn hoá trên toàn thế giới. ĐTC cũng bảo đảm lời cầu nguyện của ngài cho dân nước Mêhicô để bạo lực chấm dứt. Trong các ngày vừa qua nó đã sát hại vài linh mục.

Hôm qua cũng là Ngày quốc tế người điếc. ĐTC gửi lởi chào tất cả mọi người điếc hiện diện và khích lệ họ góp phần cho một Giáo Hội và một xã hội ngày càng có khả năng tiếp đón mọi người hơn.

Sau cũng ĐTC đặc biệt chào và cám ơn các giáo lý viên vì dấn thân của họ trong Giáo Hội phục vụ việc loan báo Tin Mừng. Ngài xin Mẹ Maria trợ giúp họ kiên trì trên con đường đức tin và làm chứng bằng cuộc sống cho điều họ thông truyền trong giáo lý.

Tiếp đến ĐTC đã đọc Kinh Truyền Tin và ban phép lành toà thánh cho mọi người.

Linh Tiến Khải
Nguồn: http://vi.radiovaticana.va/news/2016/09/25/ng%C6%B0%E1%BB%9Di_ngh%C3%A8o_l%C3%A0_trang_ch%C3%ADnh_c%E1%BB%A7a_tin_m%E1%BB%ABng_lu%C3%B4n_r%E1%BB%99ng_m%E1%BB%9F_tr%C6%B0%E1%BB%9Bc_m%E1%BB%8Di_ng%C6%B0%E1%BB%9Di/1260641

Cảm nghiệm chuyến thăm vùng truyền giáo Tây Bắc, Giáo phận Hưng Hóa

Hãy chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá

Cảm nghiệm chuyến thăm vùng truyền giáo Tây Bắc, Giáo phận Hưng Hóa

Trong suốt một tuần lễ từ ngày 19-26.09.2016, cùng với cha chánh xứ Hà Đông, kiêm hạt trưởng Xóm Mới Sài gòn cha Gioan B. Vũ Mạnh Hùng, cha phó Martino Trần Đình Khiêm Ái,cùng với quý ông ban thường vụ HĐMVGX,chúng tôi có dịp thăm và cảm nghiệm được sức sống của Giáo Hội trên một vùng truyền giáo rộng lớn thuộc Giáo phận Hưng Hóa.Chúng tôi đi từ Hà Nội,Yên Bài,Sapa và Lào Cai, theo sự hướng dẫn của cha Thành chánh xứ Lào Cai,cha Bình chánh xứ Sapa và quý cha ở đây.Chúng tôi đi sâu vào vùng núi phía Tây và Đông Bắc trên 1 trăm cây số,vùng biên giới giáp Trung Quốc.


Chúng tôi được dẫn đi vào tận những bản làng,những giáo điểm truyền giáo,gặp gỡ người dân tộc H'Mông, Tày,..Chuyến đi mang lai cho đoàn những trải nghiệm sống động trước lời mời gọi của Chúa Giêsu với các tông đồ năm xưa: “Hãy chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới”,và đó là căn tính truyền giáo của Hội Thánh, đó cũng là công việc tân phúc âm hóa.

Đoàn chúng tôi được dâng thánh lễ tại các giáo điểm thuộc giáo xứ Cốc Lếu như giáo họ Văn Bàn,Sơn Mãn,Cam Đường,Bắc Cường,bản Sen.Các địa điểm dâng lễ chỉ là nhà giáo dân với từ 50 – 100 người.Chúng tôi đi khám phá vẻ đẹp hùng vĩ,đồi núi quanh co chập chùng của núi rừng Tây Bắc,những cung đường hiểm trở,có những chỗ mưa gió làm sạt nở chắn ngang đường đi.Bức tranh thiên nhiên có vẻ đẹp thật quyến rũ lòng người,bên đường là ruộng bậc thang,xa xa có những ngôi nhà dân tộc,có cả nu cười đơn sơ của các trẻ em dân tộc.Chúng tôi cũng được tháp tùng cha xứ Lào Cai đi vào bản làng Tà Phới,để phát quà bác ái, thăm hỏi,phân phát mì gói,gạo đường…cho các gia đình,Càng đi sâu và bản làng,càng cảm thấy cái thiếu thốn vật chất của họ.Tuy nghèo khó thật,nhưng tính họ thật thà lắm,cha sở có đưa thêm quà họ cũng không lấy,và khi họ có quà, gia đình nào cũng phải có quà thì họ mới nhận,chứ không thể chấp nhận gia đình có quà gia đình không. 


Lòng đạo đức của bà con giáo dân ở đây thật tốt đẹp,họ sống giữa núi rừng và biểu lộ đức tin trong hoàn cảnh khó khăn thiếu thốn nhiều về kinh tế,nhưng vẫn tụ họp nhau cầu nguyện và tham dự thánh lễ.

Công việc truyền giáo ở núi rừng Tây Bắc của các mục tử ở đây là đến với họ,mất nhiều thời gian và tài chánh, gặp gỡ và thăm viếng,thấu hiểu văn hóa các dân tộc,đến với họ, xây dựng những cộng đoàn thờ phượng Thiên Chúa.Trong đoàn của chúng tôi có nhiều anh em lần đầu tiên được tham dự thánh lễ ở những nơi không phải là nhà thờ,nhưng là “chòi thờ” thấp bé lè tè của nhà giáo dân giữa núi rừng hoang vu,vật liệu là nhũng tấm ván ép thô sô,kế bên bàn thờ cha chủ tế có cái giường cho các em giúp lễ ngồi.Thánh lễ ở đây thật sốt sắng,nhiều chỗ chính quyền địa phương còn làm khó dễ khi các linh mục đến làm công việc mục vụ.

Trong chuyến hành trình về thăm Tây Bắc,chúng tôi được thăm giáo dân giáo điểm Mường Khương.Nơi đây một tháng trước là một điểm nóng tôn giáo,sự cố giáo dân với chính quyền không cho cha Thành dâng lễ.Nơi đây là một nhà giáo dân mà cha xứ cha phó Lào Cai thường dâng lễ.Khó khăn đã được giải quyết,ban tôn giáo tỉnh Lào Cai đã chấp nhận cho các cha Lào Cai dâng lễ hằng tuần tại một địa điểm đã đăng kí trước với chính quyền.

Có đi có mới thấy được cái sự “ra chỗ nước sâu mà thả lưới” tức là cái khó khăn vất vả của các vị chủ chăn của núi rừng Tây Bắc.Một ngày Chúa Nhật các ngài phải dâng lễ tới bẩy tám địa điểm trên dưới 350 km.Đúng là một ngày vất vả của người tông đồ,ra đi loan báo Tin Mừng và cầu nguyện.Anh em trong đoàn,hai cha giáo xứ Hà Đông được tháp tùng cha chánh xứ Lào Cai có mấy ngày đi dâng lễ mà ai nấy cũng ê ẩm cả lưng,vì chúng tôi phải di chuyển suốt ngày bằng xe ô tô.Các vị mục tử ở đây quanh năm suốt tháng phải đi như vậy thì mệt mỏi biết chừng nào. 

Các cha đi làm mục vụ hằng tuần trước hết là thăm hỏi giáo dân,đến với họ bằng lòng yêu mến,quy tụ giáo dân lại dâng lễ,phụng thờ Thiên Chúa.Mỗi giáo điềm dâng lễ chỉ vỏn vẹn 50 – 100 người, nhưng nhờ những thánh lễ đó họ được Thiên Chúa dưỡng nuôi hằng ngày bằng của ăn thiêng liêng.

Có đi mới thấy được những khó khăn,mới cảm phục lòng đạo đức,tinh thần truyền giáo của quý cha ở đây,sự chăm lo cho đoàn chiên.Các ngài mang trong mình nặng “mùi chiên”,làm việc không có giờ nghỉ ngơi,các ngài đi dâng lễ về tới nhà xứ là 11 giờ đêm.

Cha chánh xứ Lào Cai tâm sự với chúng tôi về những nhu cầu được đón nghe Tin Mừng cha được mọi người gọi là cha “đầu đất”. “Đầu đất” có nghĩa là lúc nào ngài thấy mảnh đất nào đẹp thuận lợi,ngài lại mua để làm nơi thờ phượng cho giáo dân,lo có một chỗ để giáo dân đến tham dự thánh lễ,để họ không phải đi xa.Giáo xứ Lao Cai hiện nay có khoảng 40 giáo điểm giáo họ với 5 cha phó coi sóc,nhiều giáo điểm đang xây dựng như giáo họ Cam Đường và có những sắp sửa khởi công xây dựng, nhiều nhà giáo dân các cha dâng lễ hằng tuần.Nhờ những thánh lễ, qua những gặp gỡ của vị mục tử mà nhiều người đã theo đạo, có những người trước đây có đạo nhưng vì hoàn cảnh xa rời sinh hoạt đạo đức thờ phượng Chúa hơn 50 năm qua,nay lại được trở về với đời sống đạo.

Chuyến đi của chúng tôi như một chuyến hành hương Năm Thánh Lòng Thương Xót,thăm các giáo điểm giáo xứ, tham dự thánh lễ,gặp gỡ mọi người trong những bữa cơm tại nhà xứ và tư gia,đó là những bài học truyền giáo cơ bản,đến với anh chị em, chia sẻ và thấu cảm,hâm nóng đức tin của mình giữa cuộc sống còn bộn bề lo toan nhiều chuyện.

Bà con Tây Bắc còn nhiều thiếu thốn,nhất là về đời sống tâm linh được thờ phượng Thiên Chúa,thiếu linh mục ở vùng truyền giáo.Có những gia đình ở xa nhà thờ đến 100 km đường đèo,nhưng họ vẫn tham dự thánh lễ mỗi Chúa Nhật ở nhà thờ Cốc Lếu- Lào Cai.

Trong đoàn của giáo xứ Hà Đông có hai cha cùng với anh Tuyến,anh Nhật và tất cả anh em đều là hội viên Legio Mariæ Xóm Mới 2 và giáo xứ Hà Đông,nên qua chuyến đi thăm này,các hội viên Legio có dịp gặp gỡ anh em Legio Tây Bắc. Legio Mariæ tại Giáo xứ Lào Cai tuy mới thành lập được 1 năm nhưng cũng có nhiều đóng góp tích cực trong đời sống giáo xứ, hữu ích cho các linh hồn. 

Bài học sau chuyến đi khi trở về thành phố Sài Gòn ồn ảo nhộp nhịp này không phải là chúng tôi thấy và cảm thương để giúp một ít vật chất,nhưng là để lại cho chúng tôi một tinh thần truyền giáo vang vọng lời thôi thúc của Thầy Giêsu.Cánh đồng truyền giáo Việt Nam thật bao la rộng lớn,chúng ta cầu nguyện đồng cảm với những bước chân không mệt mỏi loan báo Tin Mừng cho dân tộc vùng Tây Bắc.Chúng ta học bài học cơ bản là mở lòng ra với anh em,việc giúp đỡ vật chất cho những người túng thiếu là rất cần thiết,nhưng làm sao mỗi Kitô hữu chúng ta ý thức sứ mạng truyền giáo, đời sống mình có thể làm lan tỏa Tình yêu thương với mọi người chung quanh. Xin cám ơn quý cha vùng Tây Bắc đã dẫn đoàn chúng con đi đồng hành với các ngài trong 1 tuần lễ làm mục vụ.Việc thực hành bác ái và chia sẻ với người nghèo túng phải đi đôi với thao thức với sứ mạng truyền giáo,kể chuyện Chúa Giêsu cho những anh em lương dân còn chưa biết đến ngài.Có thể nói đường đèo vùng núi Tây Bắc nguy hiểm nhất nước,nhưng ngồi trên xe chúng tôi vẫn thích thú ngắm nhìn thiên nhiên và cảm phục tinh thần nhiệt huyết truyền giáo của các cha ở đây. 

Tạ ơn Chúa đã cho chúng con một chuyến đi thật ý nghĩa. Chúng con thấy được thiên nhiên núi rừng Tây Bắc như bức tranh đẹp, tất cả là công trình tạo dựng của Thiên Chúa, nhưng đồng thời chúng con thấy được đòi hỏi cấp bách của sứ mạng loan báo Tin Mừng, ra đi đến gặp gỡ mọi người mang tình yêu thương đến với họ, chúng con cảm phục sự vất vả của các vị mục tử ở đây đã hết lòng vì đoàn chiên.Xin cho chúng con biết mở lòng ra đón nhận nhau,ngay cả với những khác biệt,chúng con biết yêu thương và cộng tác với nhau,làm cho Giáo Hội- giáo xứ là mái nhà chung của tất cả mọi người.Chúng con không chỉ biết chia sẻ vật chất nhưng còn mang đến cho những người nghèo tình người gắn bó qua những gặp gỡ và thăm hỏi nhau trong cuộc sống đời thường, giữa bà con lối xóm bên cạnh nhà.Nhờ đó, chúng con mới có thể loan báo Tin Mừng cho mọi người chưa nhận biết Chúa.

Martino Lê Hoàng Vũ
Nguồn: http://vietcatholic.net/News/Html/192237.htm

Tình hình Giáo hội Công giáo tại Azerbaijan và Gruzia


WHĐ (27.09.2016) – Vào thứ Sáu 30-09 tới, Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ bắt đầu chuyến tông du ba ngày đến Gruzia và Azerbaijan.

Nhân dịp này, Toà Thánh đã công bố các các số liệu thống kê liên quan đến Giáo hội Công giáo tại hai quốc gia này. Thông tin cập nhật đến ngày 31 tháng Mười Hai 2015, do Văn phòng Thống kê Trung ương của Giáo hội cung cấp.

Gruzia có diện tích 69.700 km2, dân số 4.506.000 người, trong đó có 112.000 người Công giáo, chỉ chiếm 2,5% dân số. Có một hạt Giám quản Tông Toà với 32 giáo xứ. Hiện nay có 2 giám mục, 28 linh mục, 39 tu sĩ (2 nam và 37 nữ), 45 giáo lý viên. và 14 chủng sinh. Giáo hội có ba trung tâm giáo dục Công giáo, từ mầm non đến đại học. Về các trung tâm bác ái và xã hội thuộc Giáo hội, hoặc do giáo sĩ hay tu sĩ điều hành, Gruzia có chín phòng khám, một nhà cho người già, bệnh nhân và người khuyết tật, một trại mồ côi / nhà trẻ, hai trung tâm tư vấn gia đình, và hai tổ chức khác.

Gruzia có 84% người theo Chính thống giáo và gần 10% là người Hồi giáo.

Azerbaijan có diện tích 86.600 km2, dân số 9.642 người, trong đó có 570 người Công giáo, tức 0,01% dân số. Có một hạt Phũ doãn Tông toà với một giáo xứ và một trung tâm mục vụ. Hiện nay có 7 linh mục, 10 tu sĩ (3 nam và 7 nữ), 4 giáo lý viên và 1 chủng sinh. Giáo hội tại đây có một trung tâm giáo dục Công giáo cấp trung học. Về trung tâm bác ái và xã hội thuộc Giáo hội, hoặc do giáo sĩ hay tu sĩ điều hành, Azerbaijan có một nhà cho người già, bệnh nhân và người khuyết tật.

Đa số người Azerbaijan theo Hồi giáo (97%), chủ yếu thuộc hệ phái Shia.

Minh Đức
Nguồn: http://hdgmvietnam.org/tinh-hinh-giao-hoi-cong-giao-tai-azerbaijan-va-gruzia/8244.57.7.aspx

Giải đáp phụng vụ: Mỗi ngày giáo dân được rước lễ mấy lần?

Giải đáp của Cha Edward McNamara, Dòng Đạo Binh Chúa Kitô (LC), Khoa trưởng Thần học và giáo sư phụng vụ của Đại học Regina Apostolorum (Nữ Vương các Thánh Tông Đồ), Rôma.

Hỏi: Trong giáo xứ của chúng con, con đã nhận thấy trong vài năm qua rằng các thừa tác viên Thánh Thể đều rước lễ, trước khi họ cho các giáo dân rước lễ. Vào ngày thứ Sáu, chúng con có nhiều hơn 10 Thánh Lễ. Vì thế, một số thừa tác viên Thánh Thể rước lễ đến sáu hoặc bảy lần, vì họ cảm thấy cần thiết để rước lễ, trước khi họ cho các giáo dân rước lễ. Theo như con hiểu từ Bộ Giáo Luật và Sách Giáo Lý, các tín hữu chỉ có thể rước lễ hai lần trong một ngày. Ngay cả khi tín hữu rước lễ lần thứ hai, người ấy cần phải tham dự đầy đủ Thánh Lễ - V. R., United Arab Emirates (Các Tiểu Vương Quốc Ả Rập Thống Nhất)

Đáp: Bạn đọc trên đây nói chính xác trong việc giải thích Bộ Giáo Luật ở điểm này.

Điều chủ chốt cho câu hỏi là Điều 917. Điều này nói: "Ngoại trừ quy định ở điều 921, triệt 2, ai đã rước lễ rồi thì có thể rước lễ một lần nữa trong ngày đó, nhưng chỉ ở trong Thánh Lễ mà họ tham dự”.

Điều 921§2 nói: "Cho dù ngày ấy họ đã rước lễ rồi, cũng rất nên cho họ rước lễ lần nữa nếu mạng sống của họ bị lâm nguy” (Bản dịch Việt ngữ của các Linh Mục: Nguyễn Văn Phương, Phan Tấn Thành, Vũ Văn Thiện, Mai Ðức Vinh). 

Như vậy, một người Công Giáo có thể rước lễ một lần thứ hai trong ngày, nhưng chỉ trong một Thánh Lễ mà người ấy tham dự. Ngoài Thánh Lễ, việc Rước lễ lần thứ hai hoặc thậm chí lần thứ ba chỉ có thể được thực hiện, như của ăn đàng cho người sắp chết.

Ngoại trừ trường hợp của ăn đàng, người ta nên giữ chay một giờ trước cả hai lần rước lễ.

Huấn thị Redemptionis Sacramentum (Bí Tích Cứu Độ) cũng lặp lại nguyên tắc chung này:

"95. Người giáo dân “đã rước lễ rồi thì có thể rước lễ một lần nữa trong cùng ngày đó, nhưng chỉ ở trong cử hành Thánh Thể mà họ tham dự, ngoại trừ quy định ở điều 921 §2 của giáo luật" (Bản dịch Việt Ngữ của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam).

Sự khác biệt giữa Qui chế Tổng Quát Sách Lễ Rôma và Huấn thị Redemptionis Sacramentum là Huấn thị đề cập đến "người giáo dân". Điều này được nói rõ, vì Giáo luật đã tiên liệu rằng linh mục đôi khi có thể cử hành ba Thánh lễ trong một ngày, vì lý do mục vụ.

Có một lý do thần học cho điều này, mà trong đó linh mục như là thừa tác vỉên cử hành Thánh lễ được đòi hỏi hoàn thành hy tế, bằng cách chia sẻ Mình và Máu Chúa Kitô. Ngài rước lễ trước khi cho các người khác rước lễ.

Các thừa tác viên ngoại thường cho rước lễ được cử giúp linh mục cho các tín hữu rước lễ, trong một cách thuận lợi, nhưng họ không có nghĩa vụ phải dự phần vào Bàn Tiệc Thánh như vị linh mục. Họ có bổn phận tuân giữ các qui chế tổng quát của Giáo Hội và như vậy, khi họ quảng đại phục vụ trong hơn hai Thánh lễ, họ phải chọn rước lễ trong hai Thánh lễ, và không rước lễ trong Thánh lễ khác nữa.

Khi họ không rước lễ, họ không buộc phải tham dự trọn Thánh lễ ấy, nhưng chỉ có mặt khi họ chuẩn bị cho các tín hữu rước lễ mà thôi. Lúc này, họ cũng ở trong tình trạng tương tự như tình trạng của nhiều linh mục, trước khi có định chế thừa tác viên Thánh Thể. Tại thời đó, thường các linh mục khác của giáo xứ đi vào nhà thờ, sau phần kinh Lạy Cha, và tham gia việc cho rước lễ. Họ sẽ không rước lễ. Ngoài ra, cũng tại thời đó, giáo luật không cho phép rước lễ nhiều hơn một lần trong một ngày, trừ trường hợp của ăn đàng cho người sắp chết.

Trong hầu hết các quốc gia, đây không phải là một vấn đề thực sự, vì hầu hết các Thánh lễ đều có các thừa tác viên ngoại thường cho rước lễ, được phân công phục vụ, và chỉ thỉnh thoảng họ mới phục vụ trong hơn một Thánh Lễ.

Dường như trong bối cảnh giáo xứ của bạn đọc trên đây có sự thiếu hụt các người sẵn sàng và/hoặc có đủ điều kiện cho việc phục vụ này, và do đó gánh nặng rơi vào một số người tương đối ít.

Vì vậy, cho đến khi tình trạng thiếu hụt này được khắc phục, tôi xin đề nghị rằng các thừa tác viên ngoại thường nào không rước lễ, xin hãy chờ cho đến khi các thừa tác viên ngoại thường khác rước lễ xong, lúc ấy họ mới tiến tới bàn thờ, tiếp nhận Bình thánh để cho các tín hữu rước lễ. (Zenit.org 27-9-2016)

Nguyễn Trọng Đa
Nguồn: http://vietcatholic.net/News/Html/192246.htm

Thứ Hai, 26 tháng 9, 2016

Thao thức về trau dồi tiếng Việt cho người trẻ



Kính thưa toàn thể Cộng đồng Dân Chúa Việt Nam,

Nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà thơ Hàn Mạc Tử (21/9/1912-2012), một số tác giả văn thơ Công giáo đã có dịp gặp gỡ và cùng nhau chia sẻ thao thức về nhu cầu khẩn cấp phải giúp các bạn trẻ Công giáo trau dồi tiếng Việt. Bản thao thức này cũng đã được các tác giả văn thơ góp ý thêm nhân dịp lễ trao giải cuộc thi lần thứ IV, 21-22/9/2016.

Ngày 13/01/2016, Hội thảo khoa học về Lịch sử chữ Quốc ngữ (mang tên “Bình Định với chữ Quốc ngữ”) tại Qui Nhơn đã ghi nhận công lao to lớn của các nhà truyền giáo và tiền nhân trong việc hình thành và phát triển chữ Quốc ngữ. Đóng góp của cha ông xưa thúc giục con cháu ngày nay phải phát huy tiếng mẹ đẻ nhằm chu toàn trách vụ loan báo Tin mừng.

Thế nhưng hoàn cảnh xã hội và văn hóa ngày nay đang đặt ra cho thế hệ trẻ Việt Nam nói chung và các bạn trẻ Công giáo nói riêng nhiều thách đố trong việc diễn đạt ý tưởng bằng tiếng Việt, trong văn nói cũng như văn viết.

Thật ra, sự suy thoái văn hóa đọc và văn hóa viết không chỉ là điều quan ngại của chúng ta mà còn là vấn đề toàn cầu. Cả Tổ chức UNESCO cũng đã chọn ngày 21-2 hằng năm làm ngày Quốc tế tiếng mẹ đẻ. Do đó những thao thức, suy nghĩ và sáng kiến đóng góp này vừa hòa nhịp với cộng đồng nhân loại vừa mong tìm ra những giải đáp thực tế và hữu hiệu cho hoàn cảnh hiện nay của Giáo hội Công giáo Việt Nam.

I. TẦM QUAN TRỌNG CỦA TIẾNG VIỆT

1. TRONG VIỆC HÌNH THÀNH NHÂN CÁCH VÀ ĐẠO ĐỨC

Có thể nói, đánh giá đầu tiên của người khác đối với mỗi con người là trên bình diện ngôn ngữ. “Lời ăn, tiếng nói” là điều mà cha mẹ phải dạy cho con trước tiên. Người lịch lãm có cách dùng từ và diễn ý khác dân giang hồ. Các công ty tuyển dụng nhân sự đều cần phải phỏng vấn. Nét đẹp của ngôn ngữ sẽ dẫn dắt ta đến nét đẹp của tư duy và hành động. Phong cách ứng xử của giới trẻ hiện nay bị tha hóa phần nào cũng là do thiếu trau dồi tiếng mẹ đẻ.

2. TRONG VIỆC XÂY DỰNG XÃ HỘI – QUÊ HƯƠNG

Học giả Phạm Quỳnh có nói: “Tiếng ta còn, nước ta còn”. Ngôn ngữ một dân tộc đi đôi với vận mệnh dân tộc ấy. Sự thật ấy được chứng nghiệm nơi lịch sử dân Do Thái. Sau 19 thế kỷ bị ly tán, năm 1947 họ đã tái lập được quốc gia nhờ vẫn giữ vững tiếng nói và chữ viết của cha ông. Ngôn ngữ mẹ đẻ giúp họ nhớ mình là người dân cùng một nước, có một lịch sử cần tiếp nối và có một quê hương để hẹn về.

Ta không biết các Việt kiều ở nước ngoài sẽ duy trì tiếng Việt được mấy đời, thế nhưng ngay trong nước, tình trạng xem ra rất bi quan. Sinh viên ra trường mà viết tiếng Việt không xuôi, sai cả về chính tả, dùng từ, đặt câu và diễn ý. Bên cạnh đó là cách viết tiếng Việt tùy tiện trên tin nhắn điện thoại và giao tiếp trên mạng đã xâm nhập cả trên các văn bản học tập, văn bản thư tín và cả trên các biểu ngữ công cộng…

3. TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN VĂN HÓA

Người Việt Nam hiện nay bị mất thói quen đọc sách. Bao nhiêu lời hay, ý đẹp, tư tưởng trong sáng hướng thượng được các tác giả ấp ủ, thai nghén… nhưng thử hỏi hậu thế có mấy ai đón nhận?

Trong buổi bình minh của nền văn học Việt Nam hiện đại dùng mẫu tự La-tinh, đã có những áng văn bất hủ, những vần thơ trác tuyệt; nhưng hiện nay còn mấy người nhớ tới, nói chi đến việc kế thừa? Tiếng Việt có cách chơi chữ tao nhã và thâm thúy đã được truyền từ nhiều đời nhưng hiện nay xem như… tuyệt chủng! Để rồi thay vào đó là những thứ phi văn hóa nhan nhản khắp nơi. 

4. TRONG VIỆC ƯƠM NIỀM TỰ HÀO DÂN TỘC

Thời Bắc thuộc, không ít lần các danh sĩ người Việt đã chinh phục được triều đình phương Bắc bằng văn hóa và ngôn ngữ (Mạc Đĩnh Chi, Đoàn Thị Điểm, Trạng Hiền…). Các sứ giả đi giữa rừng gươm không hề nao núng nhờ biết vận dụng bộ não thông kim bác cổ và dùng “ba tấc lưỡi”. Kiến thức đi đôi với ngôn ngữ khiến ta tự tin hơn là gươm giáo và sức mạnh.

Hãy nhìn sang một số nước châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan… Chữ viết của họ rất khác biệt với mẫu tự La-tinh ta đang dùng. Để hòa nhập với thế giới, họ gặp nhiều khó khăn hơn ta. Vậy mà, họ vẫn tôn vinh lối viết ấy và tìm cách cho người dân trân trọng tiếng Mẹ đẻ. Tại Thái Lan, những bảng hiệu bằng tiếng nước ngoài bị đánh thuế rất đắt. Nhiều nhà đầu tư Nhật Bản hay Hàn Quốc ra nước ngoài không dùng tiếng Anh, khiến người ta phải học tiếng của họ để làm việc cho họ. Còn chúng ta?

5. TRONG SỨ MẠNG LOAN TIN MỪNG

Với các con cái Chúa, nhất là những người dấn thân cho sứ vụ loan báo Tin mừng, khả năng nói và viết tiếng Việt trôi chảy và đúng chuẩn mực là điều hết sức quan trọng. Đạo Chúa là Đạo mạc khải, phải được diễn tả bằng Lời, trước hết là cho những người anh em cùng văn hóa và ngôn ngữ đang sống ngay bên cạnh. Bởi thế, người thông truyền sứ điệp Tin Mừng cho người Việt phải nói và viết tiếng Việt thật chuẩn xác và trong sáng.

II. LÀM THẾ NÀO ĐỂ MỌI THÀNH PHẦN DÂN CHÚA GÓP SỨC VÀO VIỆC TRAU DỒI TIẾNG MẸ ĐẺ?

Mọi người Công giáo Việt Nam đều cần ý thức tầm quan trọng của việc trau dồi tiếng mẹ đẻ và cùng chung quyết tâm khắc phục, từ nỗ lực của các gia đình và giáo xứ đến cấp giáo phận và quy mô cả nước.

1. KHỞI ĐI TỪ GIA ĐÌNH

Các gia đình có phần trách nhiệm trong việc suy thoái tiếng Việt nơi người trẻ vì chúng ta thiếu quan tâm theo dõi nhắc nhủ con em mình. Đàng khác, khi cho con em đi học, thường chúng ta chỉ bận tâm tới chuyện học gì để dễ xin việc làm về sau, đua nhau học tiếng Anh theo phong trào, không bận tâm gì tới tiếng Việt.

Làm sao để giúp các gia đình có cái nhìn rộng lớn hơn, vươn tới lợi ích chung của Dân tộc và Hội thánh chứ không chỉ nghĩ tới lợi ích riêng của nhà mình? Làm sao để cha mẹ không chỉ lo liệu cho con cái biết làm ra tiền nhưng trước hết biết hướng đời mình về Chân, Thiện, Mỹ?

2. ĐẾN SINH HOẠT GIÁO XỨ

Việc giữ gìn tiếng Việt là trách nhiệm của mọi người. Đang khi nhiều người khác không biết dựa vào đâu để cổ võ sự phục hưng cho tiếng Việt thì người Công giáo may mắn có hệ thống giáo xứ. Chúng ta cần vận động tất cả phụ huynh và bạn trẻ ở các giáo xứ tích cực hưởng ứng, mới mong đạt kết quả cao.

Các giáo xứ cần có chương trình tìm kiếm và đào tạo các tài năng văn thơ trẻ qua các cuộc thi văn thơ tại chỗ, mở lớp trau dồi viết văn, khuyến khích các đoàn thể làm nội san, có phần thưởng cho các cá nhân và tập thể xứng đáng. Cần có tầm nhìn xa rộng để đầu tư mở lớp trau dồi tiếng Việt cho nhi đồng và thiếu niên. Nếu chính người dân trong giáo xứ ý thức được vấn đề, chúng ta có thể bắt đầu, hoàn toàn tự lực hoặc với sự trợ giúp của những đồng hương xa quê.

Về văn hóa đọc, nếu mỗi giáo xứ đều có một nhóm trẻ dấn thân làm tông đồ phát hành sách báo, hằng tuần bán sách, phim và nhạc đạo cuối nhà thờ , cổ võ mọi người đọc sách thì tình trạng sẽ khả quan hơn.

Các lớp giáo lý, các đoàn thể trẻ từ hội lễ sinh, Thiếu nhi Thánh thể đến ca đoàn cần khuyến khích thành viên của mình trau dồi Việt ngữ.

Nỗ lực tại giáo xứ kết quả nhiều hay ít tùy vào sự quan tâm của các cha xứ và cha phó. Xin quý cha tha thiết và thường xuyên nhắc nhở mọi người.

3. GIỚI TRẺ

Cách nói và cách viết tiếng Việt của các bạn trẻ đang bị bóp méo rất nhanh vì ngôn ngữ của tin nhắn. Lòng vị tha và quả cảm của người trẻ đang bị nhạt phai và tan rã. Lương tâm người trẻ đang bị lệch lạc mà không ý thức. Làm sao để cứu vãn những điều ấy? Muốn giúp người trẻ tìm lại tâm hồn quảng đại và những lý tưởng cao cả, khuyến khích họ đọc gương danh nhân và học lịch sử nước nhà thôi chưa đủ, còn phải dạy họ yêu tiếng nói của quê hương.

Ta phải làm gì để giúp các bạn trẻ biết đánh giá mọi sự theo quan điểm Tin mừng? Làm sao cho giới trẻ sống Tin mừng, chọn phục vụ Thiên Chúa thay vì chạy theo Tiền của?

Bản thao thức này được gửi trực tiếp đến các bạn trẻ qua các phương tiện thông tin giới trẻ hiện dùng để các bạn thấy đây là vấn đề của chính mình. Tương lai Dân tộc và Hội thánh là của chính các bạn và tương lai ấy tùy thuộc vào độ chuẩn xác về cách dùng tiếng mẹ đẻ của các bạn. Càng chăm chú trau dồi tiếng Việt, bạn trẻ càng trưởng thành nhờ gia tăng khả năng hướng vào nội tâm, làm giàu đời sống tinh thần: quan sát, suy tư, nghiền ngẫm và cả cầu nguyện trong thinh lặng. Cách làm việc ấy đưa người trẻ đến với chiều sâu Tin mừng. Số ơn gọi cũng sẽ nhờ đó mà gia tăng.

Ước mong rằng chính các bạn trẻ tích cực tham gia chia sẻ những thao thức này và mạnh dạn đề xuất sáng kiến của các bạn. Mong rằng khắp nơi sẽ dậy lên những nhóm trẻ yêu tiếng nước nhà, những câu lạc bộ luyện văn, những Facebook, nhắc nhau trau dồi tiếng mẹ đẻ, nói và viết tiếng Việt thật chuẩn.

4. CHỦNG VIỆN VÀ CÁC DÒNG TU

Hầu hết những ứng viên vào các Chủng viện và Dòng tu tại Việt Nam hiện nay đều gặp khó khăn về việc viết văn. Chương trình đào tạo hiện nay tại các chủng viện và dòng tu đã có phần chú ý tới tiếng Việt nhưng kết quả còn hạn chế.

Văn là người, lời văn vừa tiết lộ vừa định hình cách suy nghĩ và hành động của một người. Muốn điều chỉnh những lệch lạc về giáo dục nhân bản, cách dễ làm và hữu hiệu nhất là điều chỉnh lại nét chữ và lời văn.

5. TIỀM NĂNG CÁC GIÁO PHẬN

Trong thực tế, các giáo xứ miền quê rất khó khăn về tài chánh. Trong mỗi giáo hạt, những giáo xứ có điều kiện cần hỗ trợ những giáo xứ nghèo. Các nhà hảo tâm trong và ngoài nước cần có hướng đi tích cực, thay vì dồn tiền vào các cơ sở vật chất nên dùng một phần nâng đỡ các giáo xứ trong việc phát huy văn hóa. Các cấp mục tử cần có những tiếng nói vận động về việc này. Hơn nữa, muốn đẩy mạnh phong trào, các giáo xứ cần được cấp giáo phận quan tâm đầu tư cách thiết thực.

Trang truyền thông của mỗi giáo phận cần quan tâm tới việc chăm sóc tiếng Việt cho người trẻ, cổ võ và nâng đỡ các giáo xứ trong việc này.

Cần có kế hoạch đào tạo người cầm bút cho Giáo phận. Hiện nay có hai giải thưởng văn thơ Công giáo bắt đầu được chú ý: Giải “Đất Mới” của Xuân Lộc và Giải “Viết Văn Đường Trường” của Qui Nhơn. Cả hai đều cần được duy trì và nên có thêm một giải thưởng ở phía Bắc. Các giáo phận nên khuyến khích lớp trẻ của mình tham gia gửi bài dự thi. Cần quan tâm tìm ra những người thích cầm bút sáng tác hiện có trong giáo phận và tạo điều kiện cho họ phát triển khả năng bằng cách:

+ Tổ chức ngày họp mặt hằng năm cho các tác giả trong giáo phận và những người quan tâm tới mục vụ văn hóa. 
+ Tổ chức định kỳ các cuộc thi văn thơ Công giáo thuộc Giáo phận để tìm kiếm tài năng và tác phẩm mới.
+ Lập đại lý sách Công giáo cấp Giáo phận để cung ứng sách đến các nhóm tông đồ sách báo các giáo xứ .

7. CÂU HỎI CHO GIỚI CẦM BÚT

Giới trẻ có còn yêu thích sáng tác? Nhìn qua các trang truyền thông lớn, các tác giả Công giáo hiện nay hầu hết đều trên 50 tuổi. Số tác giả dưới số tuổi ấy, cả nơi giáo dân lẫn nơi giới nhà tu, rất hiếm hoi. Nơi các trang tin giáo phận có một số người viết được những bản tin ngắn, số người viết thành bài hẳn hoi rất ít. Văn chương học thuật vẫn còn là vùng trắng với Kitô giáo, vắng bóng các chứng nhân Kitô hữu. Việc tìm kiếm và đào tạo tài năng trẻ dường như chỉ mới trên lý thuyết. Phải chăng chính sự suy thoái tiếng Việt khiến ta không làm tròn được sứ mạng loan Tin mừng cho đồng bào trong và ngoài nước?

Bản thao thức này bắt đầu từ những người đang cầm bút. Đặt vấn đề này, chính các anh chị em đang cầm bút cũng cần tự vấn, cần khởi đi từ thái độ tự phê trước khi nêu sáng kiến đóng góp. Giới cầm bút Công giáo đang và sẽ quan tâm như thế nào tới người trẻ?

8. TRÊN BÌNH DIỆN CẢ NƯỚC

Cũng ước mong Tiểu ban Từ vựng sớm hoàn thành một cuốn từ điển gồm những thuật ngữ thông dụng trong Đạo.

Những điều khác đã có nhiều người đề cập, xin để tùy các vị hữu trách quyết định.

LỜI KẾT: VÌ MỘT Ý THỨC CHUNG

Việc trau dồi tiếng Việt cho người trẻ phải là một định hướng lâu dài. Bản thao thức này chỉ nhằm khơi dậy ý thức về việc phát triển văn hóa nói chung và tiếng Việt nói riêng, đồng thời tha thiết mời gọi mọi người tích cực tham gia vào ích chung của Giáo hội. Cụ thể mỗi người nên tận dụng mọi phương tiện: email, điện thoại, photocopy văn bản để chia sẻ những thao thức này đến càng nhiều người càng tốt, đến quý cha và quý Hội đồng Giáo xứ, đến từng giáo dân, cách riêng là các bạn trẻ, sinh viên và học sinh các cấp, nhất là các chủng sinh và những người tận hiến trẻ, để hướng đến một thông điệp và một sứ mạng chung cho tất cả chúng ta. Sự suy thoái tiếng mẹ đẻ là nguy cơ đáng sợ. Nếu chúng ta không quan tâm đúng mức, thì cả Giáo hội lẫn xã hội sẽ gánh chịu hậu quả của việc suy thoái nhân cách và văn hóa ứng xử. Còn nếu chúng ta dám trực diện với thách đố và dấn thân giải quyết vấn đề, Chúa Thánh Thần sẽ làm cho công cuộc phúc âm hóa xã hội sinh hoa kết quả và Giáo hội Chúa Kitô tại Việt Nam sẽ thành niềm hy vọng cho Dân tộc.

Nếu quý vị và các bạn có những sáng kiến và những nội dung khác cần bàn, xin viết thành những bài ngắn, mỗi bài dưới 2 trang A4 và gửi về FB Văn Thơ Công Giáo https://www.facebook.com/groups/vanthoconggiao, qua email <yeuvanthoconggiao@gmail.com>, để mọi người có thể tham gia thảo luận rộng rãi.

Xin chân thành cám ơn.

NHỮNG NGƯỜI YÊU QUÝ TIẾNG VIỆT
CÙNG THAO THỨC
Nguồn: http://gpquinhon.org/qn/news/viet-van/Thao-thuc-ve-trau-doi-tieng-Viet-cho-nguoi-tre-5291/#.V-iet4iLSAk

Cha Christian Sieland ở Papua New Guinea vượt rừng sâu núi cao đến với giáo dân

Một Giám mục Papua New Guinea cử hành lễ ngoài trời


Trong khu rừng sâu thẳm vùng Melanesia, có một Linh mục Công giáo gốc Papua New Guinea trèo đèo lội suối, đi bộ hàng dặm trong rừng rậm để đến với đàn chiên sống ở những khu vực xa xăm hẻo lánh và để chăm sóc các giáo xứ nghèo khổ nhất vào các cuối tuần. Đó là cha Christian Sieland, thuộc Giáo phận Kundiawa, nước Papua New Guinea, một đất nước thuộc châu Đại dương, có 5 triệu dân. Để đến với giáo dân của mình, cha Sieland đã phải trèo qua những vùng đồi núi dốc đá đầy nguy hiểm.

Cha chia sẻ: Những người dân này sống ở một nơi có địa hình khó khăn và hiểm trở. Thiên Chúa đã đặt họ ở đó. Đó là nhà của họ. Tất cả các vật liệu được sử dụng để xây dựng nhà thờ đã được ông bà của họ vác trên vai di chuyển đến. Họ tự hào có sự hiện diện của Giáo Hội trong khu vực của họ. Nhiều người chỉ có một vài bộ quần áo hoặc chỉ có đủ tiền để sống hết tuần. Họ có thể nghèo, nhưng họ nhận biết tất cả các ơn lành Thiên Chúa ban cho họ. Họ không chết đói vì Thiên Chúa đã ban cho họ một mảnh đất màu mỡ, nơi hầu như có thể trồng tất cả mọi thứ. Họ không khát vì Thiên Chúa ban cho họ những dòng suối từ núi, sạch trong và tươi mát, ngay cạnh bên để có thể lấy nước từ đó… Khi bạn nhìn thấy đức tin đơn sơ nhưng đâm rễ sâu của họ và so sánh với đức tin của bạn được tô điểm với những bằng cấp, chứng chỉ, bạn sẽ quý trọng đức tin đơn sơ của ‘những người bé nhỏ’ này hơn”.

Cha Sieland khen ngợi lòng hiếu khách của những tín hữu Công giáo này. Cha kể lại: “Khi tôi, cha sở của họ, đến nhà thăm họ hoặc là ngủ trọ qua đêm, họ dọn cho tôi một đĩa đầy thức ăn, họ cho tôi ngủ trên giường tiện nghi nhất của họ và có mùng che muỗi. Sự chăm sóc và kính trọng họ dành cho một Linh mục làm tôi nhiều lần cảm động và ngay cả bối rối. Nhưng làm sao chúng ta có thể từ chối những cử chỉ hiếu khách từ những người có đức tin đơn giản như thế? Họ không có gì nhiều để ban tặng cho ta, nhưng những thứ nhỏ nhặt họ mang cho chúng ta là những thứ xuất phát từ sâu thẳm trong trái tim họ”.

Số tín hữu Công giáo của Giáo phận chiếm khoảng 30% trong tổng số 375 ngàn cư dân trong vùng. Giáo phận bao gồm vùng núi Wilhelm, là ngọn núi cáo nhất của Papua New Guinea với độ cao khoảng 4500 m. Vài vùng đất ở những khu vực vô cùng xa xôi đến nỗi người dân chưa bao giờ nhìn thấy một chiếc xe hơi.

Tại sao cha Sieland lại dấn thân phục vụ ở vùng đất xa xôi hiểm trở này? Cha suy tư về sứ vụ của mình như sau: “Động lực của tôi thật là đơn giản. Nếu tôi, một Linh mục được thụ phong, không đến với những người dân này, vậy thì ai sẽ đi? Không phải là tôi đã được thụ phong cho mục đích này sao, cụ thể là mang các bí tích đến cho người dân và nuôi dưỡng họ với thức ăn tinh thần, ví dụ như Lời Chúa, Thánh Thể? Không có Linh mục nghĩa là không có Thánh thể, không có xưng tội không có bí tích nào cả. Nếu tôi không đi, nghĩa là tôi đã cướp của họ quyền được lãnh nhận lương thực thiêng liêng mà Thiên Chúa đã ban. Tôi sẽ biện minh cho mình trước nhan Thiên Chúa về việc không “nuôi các con chiên của Người” như thế nào? Ngay cả khi chỉ có 10 người già cần được thăm viếng, tôi vẫn băng núi vượt sông để đến với họ”.

Cha cho biết là đã hơn 40 năm, kể từ khi độc lập vào năm 1975, chính quyền Papua New Guinea không đến thăm vùng này. Nhưng “Giáo hội đã ở đây từ khi những thừa sai đầu tiên của dòng Ngôi Lời bắt đầu rao giảng Tin Mừng cho dân chúng vào những năm đầu thập niên 1930 và 1940”. Số thừa sai châu Âu đang sút giảm đáng kể. Ngay cả với sự giúp đỡ của các thừa sai đến từ Uc, Ba lan, Ấn độ và Indonesia, hàng giáo sĩ địa phương vẫn không thể chăm sóc các vùng đất mà các người đi trước đã khai phá. 

Các giá trị truyền thống và phương Tây hiện đại đang đụng độ nhau và thế hệ trẻ có vẻ hơi bị lạc lối hay bối rối. Cha Sieland lo lắng là các giá trị truyền thống tốt đẹp tương tự với những giá trị Tin mừng đang biến mất dần và trong vòng 20 năm nữa nó sẽ mất hoàn toàn. Cha nói: “Một trong những thử thách lớn nhất đó là đánh mất các giá trị Tin mừng như trung thực, minh bạch, tôn trọng, yêu thương, dấn thân và cống hiến trong đời sống gia đình, hôn nhân, trong giáo xứ, nơi trường học cũng như ngoài trường học… Còn có những vấn đề xuất phát từ nền văn hóa Melanesi với quan hệ đa thê, sự xung đột giữa Kitô giáo và niềm tin truyền thống về ma thuật với những thực hành bạo lực và giết người. Giáo hội địa phương cố gắng hết sức để đối lai niềm tin này bằng cách giáo dục dân chúng và tiêu diệt sự mê tín, nhưng điều này không xảy ra trong một sớm một chiều nhưng cần có thời gian. (CNA 09/08/2016)

Hồng Thủy
Nguồn: http://vi.radiovaticana.va/news/2016/09/23/cha_christian_sieland_%E1%BB%9F_papua_new_guinea_v%C6%B0%E1%BB%A3t_r%E1%BB%ABng_s%C3%A2u_n%C3%BAi_cao_%C4%91%E1%BA%BFn_v%E1%BB%9Bi_gi%C3%A1o_d%C3%A2n/1260219