Ý cầu nguyện tháng

- Ý CẦU NGUYỆN THÁNG 10:

Cầu cho sứ vụ của người giáo dân trong Giáo Hội:
Xin cho các Kitô hữu giáo dân, cách riêng là phụ nữ, khi đã lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, có thể tham gia nhiều hơn vào các cơ quan hữu trách của Giáo Hội.

Thứ Ba, 25 tháng 8, 2020

Điều giáo dân trông đợi nơi linh mục

Giáo dân Việt Nam rất quý trọng linh mục. Lòng quý trọng này vừa là một lợi điểm lại vừa là một nguy cơ. Là lợi điểm vì giúp cho linh mục cảm thấy mình cần thiết và có ích. Từ chỗ này, linh mục cũng cảm thấy ít bị cô đơn. Là nguy cơ, vì lòng quý trọng ấy có thể làm cớ cho linh mục ỷ y mà tôn mình lên, coi thường thiên hạ, cho mình có quyền ăn trên ngồi trước.

Lòng quí trọng của giáo dân dành cho linh mục nên được coi là một ơn riêng Chúa dành cho hàng ngũ linh mục Việt Nam. Nhờ đó các vị được an vui và phấn khởi trong chức vụ. Vậy, với lòng quý trọng này, giáo dân đợi chờ gì nơi linh mục?

Giáo dân trông chờ linh mục là người của Chúa Giêsu, gần gũi và đầy tinh thần phục vụ.

Chức linh mục được đề cao đến tận tầng mây

Từ xưa và bây giờ cũng thế, giáo dân được nghe nói linh mục là một Đức Kitô khác, nhất là trong các lễ mở tay (mà bây giờ gọi là lễ tạ ơn sau ngày chịu chức). Chức linh mục được đề cao và đưa lên đến tận tầng mây. Do sự đề cao quá đáng quyền chức này mà linh mục cũng dễ bị cám dỗ tôn mình lên, nhất là trong ngày chịu chức, khi người ta đến xin phép lành đầu tay hay ngỏ lời chúc mừng. Thời trước Công đồng Vaticano II, người ta thường đến quì trước tân linh mục để hôn tay và xin phép lành.

Hồi đầu tháng 12-2004, tại lễ truyền chức linh mục ở Đài Bắc cho mười một phó tế, nhiều người cũng đã làm như thế. Đây là một cử chỉ đầy lòng tin và sự khiêm nhường.

Cử chỉ này có thể làm cho tân linh mục xúc động và tăng thêm lòng tạ ơn Thiên Chúa. Có lẽ vì coi linh mục như một Đức Kitô khác nên người ta mới có những cử chỉ như thế. Qua đó linh mục phải hiểu rằng giáo dân muốn linh mục là người của Chúa Giêsu và đồng hóa với Người về lòng nhân ái và tinh thần phục vụ. Trong cuộc đời truyền đạo, Chúa Giêsu luôn gần gũi tiếp xúc với người ta và tìm cách làm ơn cho họ.


ĐỒNG BÀO CHÚNG TA THÍCH SỰ HÀO NHOÁNG VÀ HÌNH THỨC BÊN NGOÀI. NGƯỜI TA THÍCH VUI, THÍCH DỄ, THÍCH ỒN ÀO. VỀ ĐIỂM NÀY, PHẢI GIỮ CHỪNG MỰC. NẾU CHIỀU THEO KHUYNH HƯỚNG NÀY THÌ LINH MỤC CŨNG DỄ TRỞ THÀNH HỜI HỢT NÔNG CẠN.

Giáo dân cũng đợi chờ nơi linh mục đức tính này là dễ gặp, dễ nhờ. Vì đức tính này mà linh mục được định nghĩa rất sâu sắc và thâm thúy là con người “được ăn” hay “bị ăn” (Le prêtre est un homme mangé). Kiểu nói này là của một linh mục người Pháp, cha Chevrier, người lập ra Hội Linh mục Prado.

Nhiều linh mục ngày nay dành nhiều thời giờ cho mình mà ít cho giáo dân. Có linh mục làm lễ sáng xong là rút lui lên lầu, suốt ngày sống với máy vi tính và các thứ máy móc khác, hoặc đi vắng không mấy khi có mặt ở nhà, mọi việc giao cho văn phòng giáo xứ, khiến cho giáo dân nhiều người cần gặp mà không được.

Lại có những cha sở tuy gặp được, nhưng giáo dân rất sợ vì tính lạnh lùng và hay bẳn gắt. Bởi vậy, điều giáo dân đợi chờ nơi linh mục là họa lại hình ảnh Chúa Giêsu trong cách hành xử, nói năng và tiếp xúc.

Giáo dục đức tin trước khi xây cất cơ sở

Nói về việc linh mục thi hành đúng chức năng, Đức Giáo hoàng Ghê-go-ri-ô Cả có một bài giảng rất sâu sắc thấm thía. Đại ý ngài than phiền là có nhiều linh mục, nhưng rất ít linh mục chịu làm việc theo chức năng của mình hay có làm thì lại làm những việc ở bên ngoài chứ không phải việc bên trong. Việc chính yếu của linh mục là rao giảng lời Chúa, cử hành bí tích, giáo dục đức tin và lo phần rỗi cho các tín hữu. Những việc này phải làm trước rồi mới đến những việc khác như xây cất, mở mang cơ sở, hoạt động xã hội, phát triển dân sinh…

Ở Việt Nam, cha sở có một vị trí xã hội tốt, nói thì dân dễ nghe và người ta cũng hay nhờ thế cha sở để làm công kia việc nọ. Vì thế, cha sở cũng dễ bị cám dỗ trở thành một nhân vật ngoài đời để có thế ăn nói với người ta.

Điều này có thể đưa linh mục đi ra khỏi phạm vi chức vụ chính thức của mình. Linh mục không phải là quan. Vậy, phải coi chừng với tính thích làm quan tự nhiên của mình mà luôn nhớ rằng linh mục chính yếu là người phục vụ lời Chúa và Tin Mừng của Người.

Tuy nhiên, nếu linh mục chỉ biết có phòng thánh, nhà thờ và nhà xứ của mình thì cũng không đủ. Mà nếu chỉ lo những công việc ở bên ngoài phạm vi phòng thánh, nhà thờ, nhà xứ thì cũng không được nữa. Vậy phải theo một bậc thang giá trị mà dành ưu tiên cho những việc thuộc bổn phận linh mục. Mà bổn phận đó là làm lễ, giải tội, giảng thuyết, đi kẻ liệt, thăm viếng người nghèo khổ, ốm đau bệnh tật.

Một linh mục, nếu làm đầy đủ bổn phận của mình thì chẳng còn thời giờ rảnh rỗi bao nhiêu. Mà nếu có rảnh rỗi thì cũng nên dành thời giờ để học hành đọc sách vở thêm. Làm linh mục rồi nhưng vẫn còn phải học, ít là học cho biết viết bài giảng và giảng thế nào cho người ta nghe được.

Soạn và viết bài giảng là một trong những hy sinh hãm mình của linh mục bên cạnh việc giải tội và “đi kẻ liệt”. Thường sau khi làm linh mục rồi, ít ai còn thích hay tiếp tục làm việc tinh thần. Vì vậy, điều giáo dân đợi chờ nơi linh mục là lo cho có giờ để làm việc tinh thần mỗi ngày, ít là để soạn bài giảng, không dài quá, không chạy theo thời sự mà chú trọng vào ý nghĩa lời Chúa, không khuyên lơn hời hợt mà mở lối cho những áp dụng thiết thực, cũng không chiều theo thị hiếu của người nghe mà chú tâm vào việc giáo dục đức tin và đem lại cho người ta một cái gì có chất lượng. Muốn vậy phải tiếp tục học và tìm tòi suy nghĩ.

Tác phong đĩnh đạc

Giáo dân muốn linh mục có tác phong đĩnh đạc trong cách ăn mặc, nói năng, cư xử. Ngày nay linh mục thường ăn mặc như người đời. Ăn mặc như người ta có cái lợi là dễ hòa đồng, thoải mái, nhưng có cái bất lợi là có thể làm cho linh mục quên danh tính của mình mà không còn giữ gìn hay ít giữ gìn trong lời ăn tiếng nói, trong cách ăn mặc và cư xử với người ta nữa.

Tất nhiên, “cái áo không làm nên thầy tu”, nhưng thầy tu phải làm cho cái áo của mình có vẻ gì là tu chứ. Vì vậy, tuy ăn mặc như người đời, nhưng linh mục vẫn phải giữ cho mình cái cốt cách là linh mục. Cốt cách đó là phải ăn mặc đơn sơ xứng đáng với con người được học hành, có chữ nghĩa và có văn hóa, không chải chuốt quá đáng mà cũng không lôi thôi xoàng xĩnh trong cách ăn mặc, bừa bãi trong lối nói năng.

Nhiều giáo dân lấy làm ái ngại cho những linh mục áo quần luộm thuộm, đầu tóc bù xù, nói năng bừa bãi. Mới đây có dư luận cho rằng nhiều linh mục trẻ sau năm 1975 thiếu nhân bản trong cách hành xử. Dư luận này đáng cho các linh mục lưu ý vì có liên quan đến ảnh hưởng và uy tín của các vị trong vấn đề làm chứng cho Chúa và cho đạo.

Có những linh mục chỉ chơi với người giàu
Vật chất ở đây là tiền bạc, của cải, đất đai nhà ở, đồ dùng cá nhân. Các linh mục phần đông không để ý đến vấn đề này bao nhiêu, nhưng giáo dân rất để ý. Người ta vẫn thích những linh mục không lo làm giàu hay tìm kiếm cho mình hoặc bà con họ hàng mình của cải vật chất. Họ còn nể trọng những linh mục sống đơn sơ giản dị, không xa hoa trong cách ăn mặc và biết sử dụng bạc tiền một cách đích đáng. Ai mà chẳng muốn có một cái máy vi tính, một chiếc xe gắn máy tốt, một máy ảnh kỹ thuật số hảo hạng, một căn phòng đầy đủ tiện nghi, càng sang càng cho là có giá trước mặt người đời. Khuynh hướng này khá mạnh và hiện ra rõ nét nơi nhiều linh mục thuộc thế hệ mới.
Đó là kiểu cách tự nhiên theo thói đời. Nhưng linh mục là người đã chọn theo Chúa chứ không theo đời. Lý tưởng là thế nhưng thực tế lại không như vậy. Thành ra linh mục luôn ở trong thế giằng co căng thẳng. Có người hỏi tại sao ít người vào đạo Công giáo, trong khi đạo có tổ chức, kỷ luật, nhiều nhà thờ đẹp đẽ, nhiều cơ sở to lớn và các lễ nghi rất tưng bừng lôi cuốn. Chắc có nhiều lý do mà một trong lý do là tại giới linh mục chúng ta xa cách.
Chúng ta xa giáo dân và những người ngoài đạo, lại cách biệt nữa. Sự xa cách đó là do lối giao thiệp và đời sống của chúng ta. Về cách giao thiệp thì có thể vì chúng ta quá bận việc nên không có thời giờ và cơ hội tiếp xúc. Còn về đời sống thì chúng ta xa cách họ, vì dù sao, nói chung, đời sống của chúng ta vẫn cao hơn phần đông đời sống của họ. Vì thế, về phía chúng ta, xem ra chúng ta ít có dịp và ít có thời giờ; về phía họ, họ ngại và sợ gặp chúng ta. Thực ra, khi người ta không ở cùng một mức độ như nhau, thì cũng khó gặp gỡ và chuyện trò với nhau lắm, trừ ra khi hai bên đều cố gắng để xích lại gần nhau.
Về sự gặp gỡ, giáo dân muốn chúng ta để ý đến những người nghèo và ít học. Người ta đã phê bình và còn phê bình những linh mục nào chỉ chơi với người giàu và có học, còn người nghèo hay ít học, có đến gặp linh mục thì thường chỉ được tiếp đãi một cách hết sức qua loa hay lạnh nhạt.


LM ANRÊ ĐỖ XUÂN QUẾ, OP

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét