Ý cầu nguyện tháng

- Ý CẦU NGUYỆN THÁNG 10:

Cầu cho sứ vụ của người giáo dân trong Giáo Hội:
Xin cho các Kitô hữu giáo dân, cách riêng là phụ nữ, khi đã lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, có thể tham gia nhiều hơn vào các cơ quan hữu trách của Giáo Hội.

Thứ Năm, 30 tháng 7, 2015

Video: Thế Giới Nhìn Từ Vatican 23 – 29/07/2015: Hướng về Đại Hội Giới Trẻ Thế ...



Xuất bản 29-07-2015
• Đức Thánh Cha Phanxicô là người đầu tiên ghi danh tham dự Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới tại Ba Lan
• Ðức Hồng Y Jao Bras De Avis khích lệ các tu sĩ Á Châu dấn thân.
• Tòa Thánh kêu gọi Cộng đồng quốc tế góp phần giải quyết các vấn đề vùng Trung Đông
• Đức Tổng Giám Mục Georg Gänswein đề cập đến Thượng Hội Đồng về Gia Đình
• Công Giáo Úc sẽ mở Đại Học tại Iraq
• Đức Thánh Cha khích lệ bênh vực sự sống trong mọi giai đoạn
• Các giới chức chính quyền phải biết thương dân như cha mẹ
• Tòa thánh cho phép bệnh viện nhi khoa địa phương sử dụng sân bay trực thăng riêng của mình.
• Các giám mục Ukraine lo ngại một cuộc 'xâm lược toàn diện' của người Nga
• Ðức Thánh Cha phê chuẩn lần thứ tư danh sách giám mục tham dự Thượng Hội đồng Giám mục tháng 10 năm 2015.
• Tuyên ngôn của các thị trưởng thành phố lớn dấn thân bảo vệ môi sinh
• Đức Thánh Cha cảnh báo các hệ lụy tiêu cực của nạn tàn phá môi sinh

Giáo lý chuẩn bị Đại Hội Gia Đình Thế Giới tại Philadelphia 2015: Bản chất và vai trò Hội Thánh



Giáo lý chuẩn bị Đại Hội các Gia Đình Thế Giới tại Philadelphia 2015

TÌNH YÊU LÀ SỨ MỆNH CỦA CHÚNG TA
ĐỂ GIA ĐÌNH SỐNG DỒI DÀO

BÀI CHÍN: BẢN CHẤT VÀ VAI TRÒ CỦA HỘI THÁNH: LÀ NGƯỜI MẸ, NGƯỜI THẦY, GIA ĐÌNH

Hội Thánh có những hình thức cơ chế, vì Hội Thánh phải hoạt động trong trần thế. Nhưng điều này không làm mất đi yếu tính của Hội Thánh. Hội Thánh là Tân Nương của Đức Kitô, một “ngôi vị” chứ không phải một “cái gì đó”. Theo ngôn từ của Thánh Gioan XXIII, Hội Thánh là mẹ chúng ta, là thầy chúng ta, là đấng an ủi và hướng dẫn chúng ta, là gia đình đức tin của chúng ta. Ngay cả khi giáo dân và người lãnh đạo trong Hội Thánh phạm tội, chúng ta vẫn cần đến sự khôn ngoan, các bí tích, sự nâng đỡ và rao giảng chân lý của Hội Thánh, vì Hội Thánh là chính thân mình Chúa Giêsu tại trần thế - là gia đình của dân Thiên Chúa.

Hội Thánh là Mẹ chúng ta, và chúng ta là con cái của người

174. Hội Thánh là Giêrusalem thượng giới, “Giêrusalem thượng giới ấy là Mẹ chúng ta”[1] (Gl 4,26). Hội Thánh là người “mẹ cho chúng ta được tái sinh”[2]. Hội Thánh, Tân Nương Trinh Khiết của Đức Kitô, hạ sinh những người con, nam và nữ, vốn được “sinh ra từ trên ... sinh bởi nước và Thần Khí” (Ga 3,3.5).

175. “Sinh ra từ trên” nghĩa là gì? Có phải nghĩa là chúng ta không có căn tính trần thế nào hết sau khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội? Không, nhưng có nghĩa là “từ giếng nước rửa tội sinh ra một Dân duy nhất của Thiên Chúa của Giao Ước Mới, vượt trên tất cả mọi biên giới tự nhiên của các quốc gia, mọi nền văn hóa, mọi chủng tộc và giới tính: ‘Vì bởi cùng một Thần Khí, chúng ta hết thảy được thanh tẩy để trở nên một thân thể”[3]. Nghĩa là với tư cách là con cái của Hội Thánh, chúng ta có một căn tính mới, vốn không tiêu hủy nhưng vượt trên tất cả mọi cách thức tự nhiên mà loài người dùng xây dựng căn tính của mình.

176. Là thành phần của Hội Thánh, chúng ta là thành phần của “một thân thể” vốn không được xác định bởi bất kỳ phẩm chất nào của con người, như tuổi tác, quốc tịch, trí thông minh, hay bởi bất kỳ thành tựu nhân bản nào, như hiệu quả, tổ chức, hay nhân đức luân lý. Nếu Hội Thánh được xác định bởi một phẩm tính nhân phàm nào trên đây, thì chúng ta sẽ không có được sự tái sinh “từ bên trên”, nhưng chỉ là từ bên dưới này mà thôi, bởi chính bản thân mình và bởi các năng lực hạn chế của mình. Vì bất kể là chúng ta có thông minh hay đức hạnh đến đâu, vẫn chẳng có gì sánh nổi với tình yêu tuyệt hảo của Đức Kitô, và Tân Nương của Người, Giêrusalem thiên quốc, Mẹ chúng ta, tức Hội Thánh. Trở nên con cái của Mẹ Hội Thánh, chúng ta lãnh nhận một ân huệ, một căn tính mới trong Đức Kitô, căn tính mà chúng ta không thể tự ban cho mình được.

Hội Thánh thánh thiện như thế nào và vì sao

177. Khi chúng ta nói Hội Thánh là “không tì vết”, không phải chúng ta không biết rằng tất cả mọi thành viên trong Hội Thánh đều là tội nhân, vì Hội Thánh “vừa thánh thiện vừa luôn cần được thanh tẩy”[4]. Sự thánh thiện của Hội Thánh là sự thánh thiện của Chúa Kitô, Phu Quân của Hội Thánh. Chính tình yêu của Đức Kitô Tân Lang, đã tạo nên Hội Thánh ngay từ đầu: “Hội Thánh được sinh ra trước hết là nhờ Đức Kitô tự hiến mình trọn vẹn cho chúng ta được cứu độ, được báo trước trong việc thiết lập Bí tích Thánh Thể, và được hoàn tất trên Thập giá... Như Evà được tạo nên từ cạnh sườn Ađam đang ngủ, Hội Thánh cũng được sinh ra từ trái tim bị đâm thâu của Đức Kitô chết treo trên thập giá”[5].

178. Chúng ta có thể nói rằng Hội Thánh được “thành hình” nên không phải nhờ bất kỳ sự đức độ, thánh thiện, hay thành tựu nào chúng ta có thể đạt được, nhưng là bởi chính tình yêu tự hiến của Đức Kitô. Khi chúng ta sinh ra từ Hội Thánh là Mẹ chúng ta, thì chúng ta được sinh ra bởi tình yêu của Đức Kitô. Tình yêu này thông ban cho Hội Thánh căn tính của mình, không phải như một quốc gia hay một tập thể, hoặc một nhóm nào cấu thành bởi những con người giống những tập thể khác, nhưng như là “Tân Nương”, người “Bạn Đời”, “một xương một thịt” của Đức Kitô, và như thế, là một Thân Mình duy nhất.

179. Tình yêu trong đó chúng ta được sinh ra trong Đức Kitô, là một tình yêu chúng ta không thể nào tự ban cho mình. Một khi được lãnh nhận, tình yêu này thanh tẩy, để cho Hội Thánh, nơi từng con cái mình, luôn luôn được biến đổi trong tình yêu của Đức Kitô cho đến khi Người nên hình nên dạng trọn vẹn nơi hết thảy chúng ta. Đây là ý nghĩa của hình ảnh Hội Thánh lữ hành, một Hội Thánh đang “trên đường hành hương” hướng đến sự hoàn hảo chung cuộc, sự hoàn hảo trong và nhờ chính tình yêu đã định hình cho Hội Thánh ngay từ đầu.

180. Cho đến lúc đó, Hội Thánh sẽ thấy cuộc lữ hành của mình là một cuộc hành hương thường xuyên đi “theo con đường sám hối và canh tân”[6] và Hội Thánh không thể, mà cũng không tự nhận mình toàn hảo, ngoại trừ của hồi môn của mình, là máu châu báu Chúa Kitô, tức là tình yêu của Người.

Người Công Giáo có tội cũng không làm mất đi sự thánh thiện của Hội Thánh

181. Hội Thánh đặt nền tảng nơi Đức Kitô, nghĩa là dù có tội lỗi trong Hội Thánh, thậm chí dù có tội lỗi nơi cả những thừa tác viên có chức thánh đi nữa, thì điều ấy cũng vẫn không thể vô hiệu hóa căn tính hay tính thánh thiện của Hội Thánh được, vì căn tính ấy không phải từ chúng ta mà ra, nhưng là từ Đức Kitô. Trong Cựu Ước, Dân Thiên Chúa, dân Israel, đã được xác lập bởi giao ước của họ với Thiên Chúa, và dù họ có tội lỗi lớn tới mức nào cũng không thể vô hiệu hóa ơn “được tuyển chọn” đó của họ, hay căn tính là Dân Thiên Chúa mà giao ước kia ban cho. Dù họ thế nào đi nữa, Thiên Chúa vẫn không bỏ rơi họ. Bất kỳ ai gặp gỡ họ thì luôn luôn vẫn là gặp gỡ Dân Thiên Chúa, cho dù có ai trong Dân Chúa có tội lỗi đến đâu đi nữa.

182. Sự trung thành với giao ước của Thiên Chúa cũng áp dụng cho Hội Thánh. Điều kỳ diệu của Hội Thánh là tình yêu của Chúa Kitô vốn xác lập nên Hội Thánh không thể bị tẩy xóa bởi bất kỳ tội lỗi nào của các thành phần trong Hội Thánh. Hội Thánh là một xã hội hữu hình giữa trần thế, nhưng đó là một xã hội không được xác lập bởi bất kỳ điều gì “của” trần thế. Đây là vẻ đẹp tuyệt vời của Hội Thánh. Chúng ta không phải chờ nhóm mười hai người toàn hảo được tạo lập trước đã rồi mới có thể tuyên bố là chúng ta có một Hội Thánh đáng tin cậy. Chúng ta không đặt đức tin của mình nơi đức hạnh hay sự toàn hảo của con người, nhưng chúng ta tin vào Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã chết vì chúng ta, và nhờ máu của Ngài đã làm cho chúng ta trở nên “một giống nòi được tuyển chọn, hàng tư tế vương giả, một dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa, để công bố những kỳ công của Ngài, Đấng đã gọi chúng ta ra khỏi miền u tối, vào nơi đầy ánh sáng diệu huyền của Ngài” (1 Pr 2, 9).

Quyền và trách nhiệm giáo huấn của Hội Thánh

183. Hội Thánh, Mẹ chúng ta, khi thông truyền cho chúng ta một căn tính mới trong tình yêu và sự thánh thiện mà nhờ đó chính Hội Thánh được hình thành, cũng có trách nhiệm giáo huấn chúng ta, huấn luyện chúng ta ngày càng hoàn hảo hơn trong căn tính mới mà chúng ta đã lãnh nhận, không phải từ thế gian, nhưng là “từ thượng giới”. Không một thẩm quyền thế tục nào có thể xóa bỏ chức năng này, vì căn tính mà Hội Thánh nhận lãnh và thông ban, không xuất phát từ những thành tựu của thế gian, như chúng ta đã thấy, mà vượt trên các thành tựu ấy và hoàn thiện chúng. Thực ra, “bổn phận mục vụ của Huấn quyền”, hay quyền giáo huấn của Hội Thánh, “có mục đích chăm lo cho dân Chúa được kiên vững trong chân lý, một chân lý có sức giải phóng”[7].

184. Huấn quyền Hội Thánh phục vụ toàn thể dân Chúa qua việc gìn giữ chân lý của Tin Mừng được nguyên vẹn, cùng với tất cả các giáo huấn luân lý mạc khải, một cách minh nhiên và mặc nhiên, trong Tin Mừng, vốn nuôi dưỡng tự do con người. Những điều này bao gồm các chân lý như phẩm giá con người, sự tốt đẹp của tạo thành, sự cao trọng của đời hôn nhân, và khuynh hướng nội tại của hôn nhân hướng đến thông hiệp yêu thương trao ban sự sống. Những chân lý này không thể bị triệt tiêu vì tội lỗi con người mắc phải chống lại phẩm giá mà các chân lý này công bố. Đúng hơn, những tội lỗi như thế lại mời gọi Hội Thánh công bố những chân lý này một cách càng trung thành hơn nữa, ngay cả khi Hội Thánh tìm kiếm sự đổi mới trong chính những chân lý này, và trong tình yêu mà từ đó các chân lý này xuất phát.

Các cặp vợ chồng và các gia đình làm chứng cho Hội Thánh như thế nào

185. Các cặp vợ chồng Kitô hữu có vai trò then chốt trong việc công bố chính những chân lý này, sao cho thế gian thấy thuyết phục nhất, nghĩa là bằng đời sống không ngừng được biến đổi bởi tình yêu, vốn được thông ban cho họ trong Bí tích Hôn phối và xác lập sự hiệp thông vợ chồng. Đức Thánh Cha Phanxicô đã mô tả một cách đầy xúc động chứng tá đức tin mà các cặp vợ chồng Kitô hữu có thể đem lại, nhờ các ân sủng của Bí tích Hôn phối:

Các cặp vợ chồng Kitô hữu không ngây thơ; họ biết các vấn đề khó khăn và các cám dỗ trong đời sống. Nhưng họ không sợ nhận lãnh lấy trách nhiệm trước mặt Thiên Chúa và trước xã hội. Họ không bỏ chạy, không trốn tránh, không lẩn tránh sứ mệnh xây dựng một gia đình và sinh thành và nuôi dạy con cái. Nhưng ngày nay, lạy Cha, thực là khó khăn… Hẳn nhiên thực là khó khăn! Đó là lý do vì sao chúng con cần ân sủng Chúa, ân sủng đến từ Bí tích! Các Bí tích không phải là những thứ thêm thắt trong cuộc đời – như khi người ta nói: Một đám cưới thật đẹp thay! Một nghi lễ trang trọng thay! Một bữa tiệc tưng bừng thay!…. Nhưng đó không phải là Bí tích Hôn phối. Đó chỉ là một trang điểm cho cuộc đời! Ân sủng không phải được ban cho để trang trí cuộc đời, nhưng là để cho chúng ta được tăng cường sức mạnh trong đời sống, cho chúng ta dũng cảm bước tới! Và vì không muốn tự cô lập mình nhưng muốn luôn luôn cùng ở bên nhau, nên các Kitô hữu cử hành Bí tích Hôn phối, vì họ biết họ cần điều đó![8].

186. Cả hai Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II và Bênêđictô XVI đều từng trích dẫn một đoạn trong tông huấn Loan báo Tin mừng (Evangelii Nuntiandi) của Đức Phaolô VI: Con người thời nay sẵn sàng lắng nghe các chứng nhân hơn là các thầy dạy, và nếu người ta lắng nghe các thầy dạy, là vì đó là những chứng nhân”[9]. Đức Phanxicô mời gọi các cặp vợ chồng Kitô hữu hãy là những thầy dạy mà người thời nay muốn lắng nghe, những thầy dạy dạy bằng chứng tá, và nhờ đó gìn giữ được chân lý và thể hiện tính thuyết phục của chân lý bằng cách đón nhận sự sống mới, bằng sự nồng ấm của tình yêu thương lẫn nhau, và qua sự sẵn sàng tiếp đón tha nhân, như những ốc đảo của tình yêu thương và lòng nhân hậu, trong một nền văn hóa thường hằn dấu của thói cay độc, nhẫn tâm và hay gây nản lòng.

187. Chứng tá của các cặp vợ chồng Kitô hữu có thể đem lại ánh sáng cho một thế giới đang xem trọng hiệu năng hơn con người, và xem trọng “sở hữu” hơn “hiện hữu” – do đó, quên mất giá trị của “nhân vị” và “hiện diện” cùng nhau. Ước mong những ai kết hôn trong Chúa Kitô sẽ là những chứng tá trung tín cho tình yêu của Người, và trở nên những thầy dạy sự thật, vốn có sức thuyết phục nội tại mọi nơi mọi lúc.

188. Hội Thánh là một định chế, nhưng luôn luôn còn hơn một định chế nữa. Hội Thánh là một người mẹ, một tân nương, một thân mình, một gia đình, và một giao ước. Tất cả những ai đã được rửa tội đều là con cái của Hội Thánh, nhờ Hội Thánh mà các Kitô hữu có được căn tính chân thực và căn bản nhất. Cũng như tội lỗi của chúng ta không bao giờ bôi xóa được việc chúng ta được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa, và là thành viên trong gia đình Thiên Chúa, thì khi người Công Giáo phạm tội, điều đó cũng không bôi xóa đi được sự thánh thiện của Hội Thánh. Yếu tính của Hội Thánh tùy thuộc vào Chúa Giêsu, Người là nền tảng chúng ta dựa vào, nền tảng thâm sâu và bảo đảm hơn bất kỳ thành tựu nào của loài người. Cho dù có nhiều thất bại, Hội Thánh vẫn không thể trốn tránh trách nhiệm rao giảng Tin Mừng, và như thế, chúng ta tiến hành sứ mệnh tình yêu của Hội Thánh.

Câu Hỏi Thảo Luận

a) Giao ước của Thiên Chúa bảo vệ chúng ta như thế nào, ngay cả khi chúng ta phạm tội?
b) Tất mọi người đều có tội, kể cả các vị lãnh đạo Công Giáo. Vậy tại sao chúng ta lại nói Hội Thánh thánh thiện?
c) Chúa Giêsu muốn chúng ta làm gì khi Hội Thánh không sống đúng theo chuẩn mực của Người?
d) Tại sao Chúa Giêsu yêu thương Hội Thánh? Hội Thánh có gì khiến Người hài lòng? Và điều gì khiến Người thất vọng?

KINH NGUYỆN CHÍNH THỨC CÚA ĐẠI HỘI GIA ĐÌNH THẾ GIỚI TẠI PHILADELPHIA 2015

Lạy Chúa là Cha chúng con/
trong Chúa Giêsu, Con Cha/
Đấng Cứu Độ chúng con/
Cha đã cho chúng con được làm con cái Cha/
trong gia đình Hội Thánh./
Xin hồng ân và tình yêu của Cha/
giúp các gia đình chúng con/
khắp mọi nơi trên thế giới/
được hiệp nhất với nhau/
và trung thành với Lời Cha./
Xin cho tấm gương của Thánh Gia Thất/
với sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần/
hướng dẫn mọi gia đình chúng con/
nhất là các gia đình đang gặp thử thách/
trở nên mái ấm của hiệp thông và cầu nguyện/
luôn biết tìm kiếm chân lý/
và sống trong tình yêu của Cha./
Chúng con nguyện xin Cha/
nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con./ Amen.
Lạy Chúa Giêsu, Mẹ Maria và Thánh Giuse/
Xin cầu cho chúng con! 

NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT
Cđ, Công đồng Vatican II
DCE, Deus Caritas Est
ĐGH, Đức Giáo Hoàng
DV, Dei Verbum
EG, Evangelii Gaudium
EN, Evangelii Nuntiandi
FC, Familiaris Consortio
GL, Giáo luật
GLHTCG, Giáo lý Hội thánh Công Giáo
GrS, Gratissimam Sane
GS, Gaudium et spes
Hc, Hiến chế
HTXHCG, Học thuyết Xã hội Công Giáo
HV, Humanae Vitae
LF,Lumen Fidei
LG, Lumen Gentium
MD, Mulieris Dignitatem
PP, Populorum Progressio
RH, Redemptor Hominis
RN, Rerum Novarum
Tđ, Thông điệp
Th, Tông huấn
VS, Veritatis Splendor

GHI CHÚ:
[1] Cf. GLHTCG, 757.
[2] GLHTCG, 169.
[3] GLHTCG, 1267. Cf. 1Cr 12,13.
[4] LG, 8; GLHTCG, 827.
[5] GLHTCG, 766.
[6] LG, 8; GLHTCG, 827.
[7] GLHTCG, 890.
[8] ĐGH Phanxicô, Diễn văn “Với những người tham dự trong cuộc hành hương của các gia đình trong Năm Đức Tin”, Vatican City, 26.10.2013.
[9] EN,41.


TGP Philadelphia
Nguồn: http://vietcatholic.net/News/Html/140565.htm

Chuyên đề 3: Giáo lý dành cho trẻ từ 7- 9 tuổi




WGPSG -- Chuyên đề 3: Giáo lý dành cho trẻ từ 7-9 tuổi (Giáo lý phổ thông) đã diễn ra tại hội trường Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, thuộc Trung tâm Mục vụ TGP TPHCM dưới sự hướng dẫn của 2 giảng viên: Cha Phêrô Nguyễn Văn Hiền - Trưởng ban Giáo lý TGP TPHCM, và Nữ tu Anna Nguyễn Thị Phương Dung - Dòng Thánh Phaolô.
Ngày 22/07/2015, ngày thứ nhất trong chuỗi 3 ngày làm việc liên tiếp về chuyên đề này.
Khoảng 50 tham dự viên, gồm các tu sĩ nam nữ, các anh chị giáo lý viên đến từ các giáo xứ trong Tổng Giáo phận cùng hiệp ý cầu nguyện bằng bài hát “Chạm lòng con”. Tiếp theo, cha Phêrô đã chia sẻ một vài câu hỏi mà báo Công giáo & Dân tộc phỏng vấn cha xoay quanh các vấn đề: việc dạy và học giáo lý của Tổng Giáo phận, việc không thống nhất giáo trình dạy giáo lý, và những đổi mới trong việc dạy giáo lý.
Về việc dạy và học giáo lý trong Tổng Giáo phận, cha vui mừng chia sẻ về truyền thống tốt đẹp là các đấng, các bậc cũng như tu sĩ và giáo dân luôn chăm lo cho công cuộc giáo dục đức tin, đặc biệt chăm lo cho thanh thiếu niên. Giáo lý phổ thông đã chuyển một bước dài từ giáo lý bí tích sang giáo lý lứa tuổi nghĩa là giáo dục đức tin trường kỳ cho người tín hữu, đồng thời quy tụ các hoạt động giáo lý khác dành cho các đối tượng như giáo lý dự tòng, giáo lý hôn nhân, giáo lý dành cho người có hoàn cảnh đặc biệt. Nối kết việc giáo lý cho các đối tượng này với nhau trong một đường hướng và phương thức chung: nhắm đến hiệp thông, thực hiện dưới hình thức gặp gỡ dựa trên nền tảng của Lời để phục vụ cho công cuộc loan báo Tin Mừng.
Về giáo trình chưa thống nhất, cha thừa nhận một cách khách quan việc giáo trình chưa thống nhất giữa các giáo xứ trong Tổng Giáo phận vì điều này đáp ứng một phần nào nhu cầu khác nhau của các cộng đoàn. Tuy nhiên, cha cũng bày tỏ sự lo lắng cho việc không thống nhất này sẽ dẫn đến sự không toàn vẹn trong việc dạy giáo lý, và cha cũng đưa ra lời khuyên là mỗi giáo phận nên chọn 1 bộ giáo lý thích hợp hoặc tự soạn bộ giáo lý riêng tùy vào hoàn cảnh của giáo phận và áp dụng chung cho toàn giáo phận.
Về những điều cần đổi mới trong việc dạy giáo lý hiện nay, cha chia sẻ mục tiêu của Đại hội giáo lý lần thứ 4 đã diễn ra từ ngày 18-21/08/2014 tại Trung tâm Mục vu Tổng Giáo phận Huế với 237 GLV gồm 2 giám mục, 118 linh mục, 45 tu sĩ, 8 chủng sinh và 64 giáo dân thuộc 26 giáo phận trên toàn quốc, là chuyển đổi từ một huấn giáo nghiêng về thông tin hay truyền đạt kiến thức sang một nền huấn giáo xây dựng và phát triển hiệp thông với Thiên Chúa cũng như với mọi người qua nỗ lực đối thoại và hòa giải. Cha nhấn mạnh “ngoài việc trình bày nội dung đức tin, giáo lý viên còn phải giúp học viên cầu nguyện với Chúa nhờ lắng nghe và đón nhận Lời từ đó hoán cải để sống và rao giảng Tin Mừng. Việc dạy giáo lý không chỉ chạm đến cái đầu mà nó phải đến trái tim và đến đôi tay... Bản thân giáo lý viên không thể đổi mới việc dạy giáo lý nếu không có sự thống nhất đường lối, hợp tác và hỗ trợ giữa các thành phần dân Chúa, giám mục, linh mục, tu sĩ và giáo dân; giữa giáo phận, giáo xứ, và gia đình”.
Tiếp đến, sơ Anna hướng dẫn cách sử dụng sách giáo lý phổ thông mang tên “Hiệp Thông”. Sơ nhấn mạnh trọng tâm của việc dạy giáo lý theo giáo trình mới đó là Lời Chúa, giáo lý viên cần phải đọc Lời Chúa và cảm được Lời Chúa trước khi chia sẻ cho người khác. Sơ nhấn mạnh “Bởi vì giáo lý là giáo dục đức tin cho nên đức tin không thể nào chúng ta truyền thông bằng trí hiểu mà chúng ta chỉ truyền thông từ tâm hồn”. Sơ hướng dẫn cách phân tích bản văn Lời Chúa nhằm hiểu rõ sứ điệp của bản văn từ đó có thể truyền đạt cho các em một cách dễ hiểu. Sơ hướng dẫn nhiều trò chơi để thu hút các em đọc Lời Chúa: Điền vào chỗ trống, dùng ký hiệu, Kinh Thánh bằng hình. Buổi trao đổi kết thúc lúc 20g40 với sự mong chờ vào một bộ giáo trình thống nhất cho Tổng Giáo phận.
Ngày 23/07/2015, ngày thứ 2 của chuyên đề, các học viên được xem DVD tiết học mẫu gồm 10 bước do Ban Giáo lý đã dành nhiều tâm sức làm ra.
Bước 1: Dẫn nhập và đón tiếp
Bước 2: Cầu nguyện đầu giờ
Bước 3: Dẫn nhập
Bước 4: Trình bày Lời Chúa
  1. Tiếp cận bản văn
  2. Quan sát bản văn
  3. Tìm hiểu ý nghĩa bản văn
Bước 5: Nội tâm hóa sứ điệp Lời Chúa
  1. Các em đón nhận Lời Chúa
  2. Các em gặp gỡ Chúa trong thinh lặng
  3. Các em trao đổi với giáo lý viên
Bước 6: Cầu nguyện giữa giờ
Bước 7: Quyết tâm
Bước 8: Củng cố
Bước 9: Ghi nhớ
Bước 10: Cầu nguyện kết thúc
Sau đó, các học viên được chia thành 4 nhóm cùng thảo luận và nhận xét về DVD tiết học mẫu; cả 4 nhóm đều thống nhất về sự cần thiết của tiết học mẫu. Tuy nhiên, nhiều ý kiến cho rằng để áp dụng trong thực tế là điều hết sức khó khăn. Cha Phêrô cũng đồng cảm với các nhóm về vấn đề này, và cha mong muốn các giáo lý viên cần mạnh dạn thử nghiệm theo hình thức mới này, đổi mới cách dạy sao cho phù hợp với hoàn cảnh của giáo xứ.
Ngày 24/07/2015, Cha Phêrô giúp các học viên hiểu được mục đích của việc cử hành trong bộ giáo trình giáo lý Hiệp Thông, “giúp học viên nhìn lại để củng cố hay đào sâu tương quan với Chúa”. Cha đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò của phụ huynh trong việc cộng tác với giáo lý viên nhằm giáo dục đức tin của các em. Cha chia sẻ điểm mới của bộ giáo trình giáo lý Hiệp Thông đó là không có phần khảo bài, điểm số vì điều này ảnh hưởng không tốt đến sự yêu thích học hỏi Lời Chúa của các em.
Buổi học cuối cùng kết thúc trong niềm vui với các chị giáo lý viên khi được học và hiểu thêm nhiều điều mới mẻ để trang bị cho hành trang ra đi thực hiện sứ vụ mà Giáo hội đã thay mặt Chúa trao phó cho các anh chị.
Nguồn: http://tgpsaigon.net/baiviet-tintuc/20150729/31570

“Một phúc lành cho nhau: Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II và dân tộc Do Thái”

WHĐ (29.07.2015) – “Một phúc lành cho nhau: Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II và dân tộc Do Thái” là chủ đề của cuộc triển lãm được khai mạc ngày thứ Tư 28-07 tại Vatican, và sẽ mở cửa đến ngày 17-09. Triển lãm này trước đây đã được trưng bày tại một số tiểu bang của Hoa Kỳ, và đã có hơn một triệu lượt khách đến xem. Cuộc triển lãm được thực hiện như một món quà sinh nhật cho Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II nhân dịp mừng sinh nhật thứ 85 của ngài, đã được khai trương tại Đại học Xavier tại thành phố Cincinnati, Ohio, vào ngày 18-05-2005, một tháng sau khi ĐứcGioan Phaolô II qua đời. Sau đó triển lãm được đưa đến Roma, và các nhà tổ chức cũng muốn triển lãm này có mặt tại thành phố Krakow của Ba Lan, nơi mà Đức hồng y Karol Wojtyla từng là Tổng giám mục.


Tại Triển lãm “Một phúc lành cho nhau”, người xem sẽ được giới thiệu về các bước đi của Đức Gioan Phaolô II đã thực hiện để cải thiện mối quan hệ giữa Giáo hội Công giáo và dân tộc Do Thái, về Tuyên ngôn Nostra Aetate của Công đồng Vatican II, ban hành năm mươi năm trước đây; trong Tuyên ngôn này Giáo hội Công giáo thể hiện sự trân trọng đối với các tôn giáo khác và tái khẳng định những nguyên tắc của tình huynh đệ phổ quát, tình yêu và không phân biệt đối xử.

Triển lãm được tài trợ bởi nhiều trường đại học, các cá nhân và các cơ quan vốn nhìn nhận rằng đối thoại liên tôn là nguồn tiến bộ của nhân loại. Triển lãm thuật lại những mối tương quan giữa Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II và những người mà trong chuyến viếng thăm lịch sử đến Đại Hội đường Do Thái ở Roma vào ngày 13-04-1986, ngài đã gọi là “những người anh của chúng tôi”.

Triển lãm chia thành bốn phần với nhiều hình ảnh, âm thanh, video và các nguồn tương tác khác.

Phần đầu trình bày những năm đầu đời của Karol Wojtyla tại nơi sinh ra của ngài là Wadowice, tình bạn suốt đời của ngài với người bạn trẻ Do Thái Jerzy Kluger, và những mối quan hệ giữa người Công giáo và người Do Thái tại Ba Lan trong thập niên từ năm 1920 đến năm 1930.

Phần thứ hai trình bày những năm Đức giáo hoàng theo học đại học ở Krakow, và công việc của ngài ở gần những người bạn sống trong Ghetto, là những người nếm trải những kinh hoàng của nạn diệt chủng Shoah.

Phần thứ ba trình bày đời sống linh mục và giám mục của ngài, Công đồng Vatican II và sự chuyển hướng mà Công đồng thể hiện trong quan hệ giữa người Do Thái và Kitô hữu, và mối liên kết chặt chẽ giữa vị Hồng y Tổng giám mục Krakow với cộng đồng Do Thái ở Tổng giáo phận của ngài.

Phần cuối trình bày khuôn mặt của Karol Wojtyla như người Kế vị Thánh Phêrô, chuyến viếng thăm của ngài tới Hội đường Roma, và chuyến viếng thăm Israel năm 2000 – dịp đó ngài đã để lại một lời cầu nguyện tại Bức tường Than khóc, xin Chúa tha thứ cho cách đối xử với người Do Thái trong quá khứ và tái khẳng định Giáo hội cam kết tiếp tục bước theo con đường huynh đệ với Dân Giao Ước.

Khách tham quan triển lãm “Một phúc lành cho nhau sẽ được mời viết một lời cầu nguyện và đặt vào một phiên bản của Bức tường Than khóc. Các lời nguyện này sau đó sẽ được gom lại và đưa đến Bức tường Than khóc tại thành cổ Jerusalem.


Minh Đức
Nguồn: http://www.hdgmvietnam.org/%E2%80%9Cmot-phuc-lanh-cho-nhau-duc-giao-hoang-gioan-phaolo-ii-va-dan-toc-do-thai%E2%80%9D/7172.57.7.aspx

Thứ Ba, 28 tháng 7, 2015

Trung Quốc: Chính phủ công nhận bằng tú tài do Chủng viện cấp


WHĐ (26.07.2015) – Sáu Đại chủng viện tại Trung Quốc được chính phủ cấp phép hoạt động vừa kết thúc năm học vớiviệc cấp bằng tú tài cho 79 chủng sinh hoàn thành chu kỳ đầu của chương trình học.

Ngay sau khi kết thúc năm học và nhận bằng, các chủng sinh được gửi đến các giáo xứ và các cộng đoàn giáo hội cơ bản để thi hành công tác mục vụ và các hoạt động khác của Giáo hội.

Theo thông tin Fides được biết, có 79 chủng sinh thuộc nhiều chủng viện như sau: 28 chủng sinh của chủng viện quốc gia, 16 chủng sinh của chủng viện Hà Bắc, 8 chủng sinh của chủng viện Trung ương Trung Quốc, 15 chủng sinh củachủng viện Thẩm Dương, 9 chủng sinh của chủng viện Thiểm Tây, 3 chủng sinh của chủng viện Bắc Kinh. Hai chủng viện Cát Lâm và Tứ Xuyên không có chủng sinh nào được nhận bằng.

Bắt đầu từ năm nay, bằng Tú tài do các chủng viện cấp sẽ được chính thức công nhận. Điều này cho phép các chủngsinh tiếp tục học tại các trường đại học của chính phủ trong các lĩnh vực có liên quan với sứ vụ mục vụ.

Ngoài ra, việc chính phủ công nhận bằng tốt nghiệp do chủng viện cấp sẽ tạo điều kiện dễ dàng cho các cựu chủng sinh tiếp tục theo học tại các trường không thuộc Giáo hội, khi họ rời khỏi chủng viện, không tiếp tục con đường hướng tới chức linh mục nữa, sau khi đã phân định ơn gọi của mình.

Cần nói thêm rằng ở Trung Quốc, các Đức Giám mục cũng cho phép mở các trung tâm đào tạo linh mục và tu sĩ nam nữ khác nữa. 

(Agenzia Fides)

Minh Đức
Nguồn: http://www.hdgmvietnam.org/trung-quoc-chinh-phu-cong-nhan-bang-tu-tai-do-chung-vien-cap/7170.57.7.aspx

Lần đầu tiên Anh Giáo tấn phong một phụ nữ làm giám mục giáo phận



Rachel Treweek đã trở thành phụ nữ đầu tiên làm giám mục giáo phận trong lịch sử Anh Giáo. Trước đó, vào đầu năm nay, Libby Lane đã trở thành người phụ nữ đầu tiên được phong làm giám mục phụ tá giáo phận.

Trong diễn văn bày tỏ sự “hồ hởi phấn khởi” của mình trước diễn biến này, Giám Mục Anh Giáo Adrian Newman nói trong buổi lễ tấn phong hôm 22 tháng 7 diễn ra tại Vương Cung Thánh Đường Canterbury rằng "Tôi hy vọng các phụ nữ này sẽ làm phiền chúng tôi, họ sẽ thách thức những quy ước của Anh Giáo, đang được tiếp tục dẫn dắt và đạo diễn bởi quá nhiều người như tôi: da trắng, nam giới, chuyên gia trung niên"

Ông cho rằng:

"Mỗi phần của xã hội, dù là thế tục hay tôn giáo, cần tìm cách cho phép những sự bất quy tắc. Tôi hy vọng các nữ giám mục mới sẽ đẩy những bất quy tắc này lên một tầm cao mới."

Tuy nhiên, tại sao lại phải có những bất quy tắc như thế, và chúng ảnh hưởng ra sao với công cuộc loan báo Tin Mừng thì giám mục Newman không giải thích. 

Đúng một năm trước đây, ngày 27/7/2014, Đức Tổng Giám Mục Canterbury, vị đứng đầu của Anh Giáo, đã viết thư cho Đức Giáo Hoàng Phanxicô để xin Ngài đừng vì việc Giáo Hội Anh Giáo chấp thuận tấn phong Giám Mục cho phụ nữ mà tiến trình hiệp nhất giữa Công Giáo và Anh Giáo bị trệch ra khỏi chương trình hiệp nhất. 

Đức Tổng Giám Mục Justin Welby thừa nhận rằng việc Giáo Hội Anh Giáo bỏ phiếu chấp thuận cho phụ nữ làm Giám Mục đã gây thêm trở ngại cho con đường hiệp nhất vốn đã khó khăn lại càng khó khăn thêm.

Trong thư gửi cho Đức Giáo Hoàng và các vị đứng đầu các Giáo Hội khác như các Thượng Phụ Chính Thống Giáo, Đức Tổng Giám Mục Anh Giáo xin các vị ấy cầu nguyện cho Giáo Hội Anh Giáo. Ngài nói “Chúng ta cần nhau”.


Đặng Tự Do
Nguồn: http://vietcatholic.net/News/Html/140587.htm

Đức Thánh Cha phê chuẩn (lần thứ tư) danh sách giám mục tham dự Thượng Hội đồng Giám mục tháng 10/2015


WHĐ (24.07.2015) – Ngày 24-07-2015, Toà Thánh đã công bố thêm một danh sách các giám mục tham dự Thượng Hội đồng Giám mục khoá thường lệ thứ 14 vừa được Đức Thánh Cha Phanxicô phê chuẩn.

Danh sách này gồm 12 nghị phụ chính thức và 8 nghị phụ dự khuyết. Cộng chung với danh sách Đức Thánh Cha đã phê chuẩn ba lần trước (ngày 31-01-2015, ngày 17-03-2015 và ngày 22-05-2015), có 180 nghị phụ chính thức và 133 nghị phụ dự khuyết.

Thượng Hội đồng Giám mục khoá 14 do Đức Thánh Cha Phanxicô triệu tập, sẽ diễn ra tại Vatican từ ngày 04 đến ngày 25 tháng Mười 2015 với chủ đề “Ơn gọi và sứ vụ của gia đình trong Giáo hội và trong thế giới ngày nay”. Khoá họp này của Thượng Hội đồng Giám mục tiếp nối Khoá ngoại thường hồi tháng Mười 2014 với chủ đề “Các thách đố mục vụ về gia đình trong bối cảnh của công cuộc loan báo Tin Mừng”.

Về phía Giáo hội Việt Nam, hai nghị phụ chính thức –đã được Đức Thánh Cha phê chuẩn trong lần đầu tiên– là Đức Tổng giám mục Phaolô Bùi Văn Đọc, Tổng giám mục Tổng giáo phận TP.HCM, Chủ tịch HĐGM và Đức giám mục Giuse Đinh Đức Đạo, giám mục phó giáo phận Xuân Lộc. Nghị phụ dự khuyết là Đức giám mục Phêrô Nguyễn Văn Khảm, giám mục giáo phận Mỹ Tho.

Minh Đức
Nguồn: http://www.hdgmvietnam.org/duc-thanh-cha-phe-chuan-lan-thu-tu-danh-sach-giam-muc-tham-du-thuong-hoi-dong-giam-muc-thang-102015/7160.57.7.aspx

Thứ Bảy, 25 tháng 7, 2015

Tin Mừng Chúa nhật XVII thường niên - Năm B


TIN MỪNG: Ga 6,1-15

(1) Sau đó, Đức Giêsu sang bên kia Biển hồ Ga-li-lê, cũng gọi là Biển hồ Ti-bê-ri-a. (2) Có đông đảo dân chúng đi theo Người, bởi họ từng được chứng kiến những dấu lạ Người đã làm cho những kẻ đau ốm. (3) Đức Giêsu lên núi và ngồi đó với các môn đệ. (4) Lúc ấy, sắp đến lễ Vượt Qua là đại lễ của người Do Thái. (5) Ngước mắt lên, Đức Giêsu nhìn thấy đông đảo dân chúng đến với mình. Người hỏi ông Phi-líp-phê : “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây ?” (6) Người nói thế là để thử ông, chứ Người đã biết mình sắp làm gì rồi. (7) Ông Phi-líp-phê đáp : “Thưa, có mua đến hai trăm đồng bạc bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút”. (8) Một trong các môn đệ là ông An-rê, anh ông Si-mon Phê-rô, thưa với Người : (9) “Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá. Nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu ?”. (10) Đức Giêsu nói : “Anh em cứ bảo người ta nằm ngả xuống đi.” Chỗ ấy có nhiều cỏ. Người ta nằm ngả xuống, nguyên số đàn ông đã tới khoảng năm ngàn. (11) Vậy Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi đó. Cá nhỏ người cũng phân phát như vậy, ai muốn ăn bao nhiêu tuỳ ý. (12) Khi họ đã no nê rồi, Người bảo các môn đệ : “Anh em thu lại những miếng thừa kẻo phí đi.” (13) Họ liền đi thu những miếng thừa của năm chiếc bánh lúa mạch người ta ăn còn lại, và chất đầy được mười hai thúng. (14)Dân chúng thấy dấu lạ Đức Giêsu làm thì nói: “Hẳn ông này là vị Ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian !” (15) Nhưng Đức Giêsu biết họ sắp đến bắt mình đem đi mà tôn làm vua, nên Người lại lánh mặt, đi lên núi một mình.
Nguồn: http://tinvuixuanloc.vn/ArticleDe.aspx?ID=2580

Thứ Sáu, 24 tháng 7, 2015

Tuyên ngôn của các thị trưởng thành phố lớn dấn thân bảo vệ môi sinh



VATICAN: Chiều 21 tháng 7 vừa qua hàng trăm thị trưởng các thành phố lớn toàn thế giới đã cùng ĐTC ký vào tuyên ngôn chung, cam kết dấn thân bảo vệ môi sinh, loại trừ các lạm dụng, khai thác, buôn bán người và mọi hình thức nô lệ mới.

ĐTC viết trong bản tuyên ngôn tiếng Tây Ban Nha: “Tôi đánh giá cao tuyên ngôn này. Tôi ước mong nó đem lại nhiều tốt đẹp”.

Các thị trưởng và giới chức dân sự thuộc nhiều nền văn hóa và điều kiện xã hội khác nhau đã tham dự đại hội do Hàn lâm viện các khoa học và Khoa học xã hội của Tòa Thánh tổ chức để thảo luận về hai đề tài cấp thiết: đó là các thay đổi khí hậu do con người gây ra, và việc bị gạt bỏ bên lề xã hội qua nạn nghèo đói cùng cực, nô lệ mới và buôn người. Tuyên ngôn khẳng định rằng các thay đổi khí hậu do con người gây ra là một thực tại khoa học, và việc giới hạn chúng là một bổn phận luân lý đối với nhân loại. Các nền văn hóa đều khẳng định phẩm giá nội tại của mỗi bản vị con người gắn liền với công ích của toàn thể nhân loại. Chúng nêu bật vẻ đẹp, sự kỳ diệu và bản chất tốt lành nội tại của thế giới, là món quà quý báu được giao phó cho loài người săn sóc. Tôn trọng chứ không tàn phá nó là bổn phận luân lý của con người.

Các người nghèo, tuy không gây ra nạn khí hậu thay đổi, nhưng lại là những thành phần chịu các đe dọa kinh khủng nhất của tệ nạn này do con người gây ra như: hạn hán ngày càng thường xuyên hơn, các trận bão ngày càng tàn phá hơn, các đợt nóng và mực nước biển dâng cao. Ngày nay nhân loại có các hiểu biết kỹ thuật và phương tiện tài chánh để xoay chiều các thay đổi khí hậu đó, đồng thời chấm dứt nạn nghèo túng cùng cực, qua các giải pháp phát triển có thể chịu đựng được, trong đó có các hệ thống năng lượng ít thải thán khí vào không trung hơn, và sư yểm trợ kỹ thuật của việc thông tin và truyền thông. Các tiến bộ kỹ thuật có thể giúp sản xuất các nguồn năng lượng có thể canh tân, thải ít thán khí hơn. Việc liên lỉ kiếm tìm hoà bình cho phép sử dụng các ngân khoản quân sự cho các đầu tư cấp thiết cho việc phát triển. Hội nghị thượng đỉnh về khí hậu tại Paris vào cuối năm nay có thể là dịp may cuối cùng cho các thỏa hiệp ấn định việc sức nóng gia tăng dưới 2 độ C. Nếu không thì lộ trình đi theo cho tới nay có thể khiến cho sức nóng trên thế giới lên tới quá 4 độ C với các hậu quả tàn phá nghiêm trọng.

Các vị lãnh đạo chính trị và mọi nước thành viên Liên Hiệp Quốc dặc biệt có trách nhiệm đối với thoả hiệp này về khí hậu, để bảo đảm mức an ninh cho toàn nhân loại và che chở các dân tộc nghèo và dễ bị tổn thương nhất trước nạn thay đổi khí hậu. Các quốc gia giầu phải tài trợ cho các nước nghèo như đã hứa để giảm bớt các hậu qủa tai hại này. Các thay đổi cần thiết phải được thực thi trong bối cảnh các mục đích phát triển có thể chịu đựng được và đi song song với việc chống lại nạn nghèo túng cùng cực, thăng tiến việc săn sóc y tế cho mọi người, gia tăng phẩm chất giáo dục, cung cấp nước trong lành và năng lượng có thể chịu đựng được, cũng như chấm dứt nạn buôn người và mọi hình thức nô lệ mới.

Như là các thị trưởng, chúng tôi dấn thân trong các thành phố của mình, để giải thoát dân nghèo và những người có điều kiện sống dễ bị tổn thương, giảm thiểu các nguy cơ phát xuất từ các tồi tệ môi sinh, kinh tế hay xã hội tạo ra vùng đất mầu mỡ cho nạn buôn người và cưỡng bách di cư. Đồng thời chúng tôi cũng dấn thân chấm dứt các lạm dụng, khai thác, buôn người, và mọi hình thức nô lệ mới. Các tội phạm chống lại nhân loại này bao gồm cả việc cưỡng bách lao động, mại dâm, buôn cơ phận người, và làm việc như nô lệ trong các gia đình. Chúng tôi cũng dấn thân phát triển các chương trình tái hội nhập và hội nhập xã hội trên bình diện quốc gia để tránh việc cưỡng bách hồi hương các nạn nhân của việc buôn người (SD 22-7-2015)


Linh Tiến Khải
Nguồn: http://vietcatholic.net/News/Html/140537.htm

Các giới chức chính quyền phải biết thương dân như cha mẹ



YANGON: Chúng tôi chờ mong các giới chức chính quyền biết yêu thương dân như cha mẹ yêu thương con cái. Theo truyền thống và nền văn hóa của chúng ta các người cai trị có quyền và có bổn phận thăng tiến hạnh phúc của toàn dân.

ĐHY Charles Bo, TGM thủ đô Yangon của Myanmar, đã đưa ra lời kêu gọi trên đây trong các ngày vừa qua. Sứ điệp ĐHY gửi hàng lãnh đạo chính trị dân sự Myanmar được công bố nhân Ngày Phụ Mẫu trong nước. Sứ điệp của ĐHY có đoạn viết: “Trong vòng 50 năm, trong những ngày đen tối của chế độ độc tài, nhân dân đã không có gia đình. Khi nền dân chủ đến, chúng tôi đã hy vọng nó đem lại tinh thần gia đình cho mọi người. Nhiều ngưỡng vọng lớn lao đã được đặt nơi hàng lãnh đạo: toàn nước hướng nhìn họ dể làm cho đất nước này trở thành một gia đình đích thật. Nhưng đã xảy ra quá nhiều khó khăn cản ngăn thực tại đó. Hệ thống kinh tế của chúng ta đang đập nát gia đình. Hàng triệu người trẻ bị tách rời khỏi cha mẹ. Các khó khăn đã khiến cho chúng ta nghèo đi và sự toàn vẹn của gia đình bị soi mòn bởi nạn nghèo túng của quốc gia. Tinh thần gia đình yếu ớt. Đa số con cái Myanmar là người nghèo. Cuộc kiểm kê dân số mới đây cho thấy thảm cảnh này. 40% tổng số dân sống dưới mức nghèo túng, và trong các vùng đất của người Chin và người Rakine dân nghèo chiếm 70%. Nạn nghèo túng làm nảy sinh ra hiện tượng di cư, khiến cho trong nhiều làng chỉ còn có người già và trẻ em nhỏ tuổi. Gia đình lại còn bị tàn phá thêm vì nạn buôn người trong các thành phố gần biên giới. Các gia đình tan nát vì thiếu giáo dục, bị đe doạ bởi nạn xì ke ma túy, hay các xung đột vũ trang. Theo ĐHY các vị lãnh đạo không ở mức cao các chờ mong của người dân. Họ đã trở thành những người che chở một chế độ tư bản khách hàng, và coi lợi nhuận như động lực duy nhất của nền kinh tế, như ĐTC đã tố cáo trong chuyến công du ba nước Mỹ Latinh hồi thượng tuần tháng 7 vừa qua.

Tiếp tục sứ điệp ĐHY Bo đưa ra câu hỏi: Giới lãnh đạo là thủ lãnh cho tất cả mọi người hay chỉ cho một ít người? Trong bao thế kỷ chúng ta đã sống như anh chị em với nhau, tuy khác niềm tin, nhưng chúng ta sống trong hòa hợp. Trong 5 thập niên Myanmar đã là mô thức của một xã hội cảm thương, cả khi nhân dân có bị đàn áp bởi những kẻ hung dữ. Nhưng từ năm 2010 đến nay hàng lãnh đạo là cha mẹ dân đã tỏ ra bất lực không kiểm soát được các biểu lộ thù hận do các tầng lớp tôn giáo quá khích phổ biến. Chiến tranh tiếp diễn tại nhiều nơi trong nước. Các anh chị em thuộc mọi tôn giáo và chủng tộc của chúng ta bị tấn công bởi sự thù ghét đó. Trong nước có 200.000 người phải di tản vì bạo lực. Liệu giới lãnh đạo của chúng ta có biết tránh mọi kỳ thị chủng tộc hay tôn giáo không? Có biết chấp nhận bình đẳng và xây dựng một quốc gia hiệp nhất như môt gia đình duy nhất không. Ngoài ý chí của họ, họ cần lời cầu nguyện của chúng ta. Chúng ta hãy cầu nguyện cho hàng lãnh đạo cha mẹ của chúng ta (FIDES 20-7-2015)


Linh Tiến Khải
Nguồn: http://vietcatholic.net/News/Html/140536.htm

Linh mục Robert Barron, “ngôi sao của kênh YouTube Công giáo”, được bổ nhiệm làm giám mục


WHĐ (23.07.2015) – Tổng giáo phận Los Angeles, Hoa Kỳ vừa có thêm 3 giám mục. Hôm thứ Ba 21-07-2015, Đức Thánh Cha Phanxicô đã bổ nhiệm ba tân giám mục phụ tá cho Tổng giáo phận này.

Một trong ba tân giám mục là người dễ nhận ra nhất, là người rất nổi tiếng trong lĩnh vực truyền thông xã hội. Đó là cha Robert Barron, 56 tuổi, linh mục của Tổng giáo phận Chicago. Cha được nhiều người biết đến qua trang web “Word on Fire” (tạm dịch: Lời bừng cháy) – có mục tiêu loan báo Tin Mừng và giải thích đức tin Công giáo.

Các video clip trên kênh YouTube của cha đã đạt số lượt người xem hơn 13 triệu, khiến cha trở thành vị mục tử Công giáo có nhiều bạn đọc theo dõi nhất trong lĩnh vực truyền thông xã hội, chỉ sau Đức Thánh Cha Phanxicô.

Với gần 5 triệu giáo dân, Tổng giáo phận Los Angeles là giáo phận lớn nhất ở Hoa Kỳ. Tổng giám mục giáo phận hiện nay là Đức cha José Gómez (từ tháng Ba 2011).

Minh Đức
Nguồn: http://www.hdgmvietnam.org/linh-muc-robert-barron-%E2%80%9Cngoi-sao-cua-kenh-youtube-cong-giao%E2%80%9D-duoc-bo-nhiem-lam-giam-muc/7154.57.7.aspx

video clip


Thứ Năm, 23 tháng 7, 2015

Khai mạc Tuần lễ Giáo lý 2015

WGPSG -- “Trong Tuần lễ Giáo lý này, xin Chúa giúp mỗi người được lớn lên trong cảm nghiệm sâu xa về Giáo hội, ý thức sâu xa mình là người nhà của Thiên Chúa, để chúng ta cùng nhau chia sẻ đời sống và sứ vụ của Hội Thánh, đặc biệt trong việc giáo dục Đức Tin”.
Đó là ước nguyện mà Cha Phêrô Nguyễn Văn Hiền đã bày tỏ trong bài giảng Thánh lễ Khai mạc Tuần lễ Giáo lý 2015.
Bài ca sinh hoạt đầu giờ “Vì tôi tin”, “Khi tình yêu là muối”, cùng với bài ca chủ đề: “Trong ngôi nhà Hội Thánh” đã được các tham dự viên hát vang, hòa theo những cử điệu với nhóm múa, tạo nên bầu khí hào hùng, sôi nổi cho khoảng 500 giáo lý viên (GLV) đến tham dự buổi khai mạc Tuần lễ Giáo lý 2015 tại hội trường GB Phạm Minh Mẫn, thuộc Trung tâm Mục vụ TGP TPHCM lúc 18g30 thứ Hai, ngày 20.07.2015. Chủ đề của Tuần lễ Giáo lý năm nay là: “Giáo lý viên, những viên đá sống động xây dựng Giáo hội / Giáo xứ” (1 Pr 2,5a).
Sau phần giới thiệu thành phần tham dự (quý giảng viên, quý cha, các Tiểu ban Giáo lý và 430 tham dự viên) là Thánh lễ thánh hóa Tuần Giáo lý 2015. Ý nguyện chính của Thánh lễ  hôm nay là cầu cho các GLV luôn hăng say trong sứ vụ giáo dục Đức Tin, sẵn sàng cộng tác với các linh mục trong việc xây dựng Giáo hội.
Cha Phêrô Nguyễn Văn Hiền - Đặc trách Giáo lý TGP - đã chủ tế Thánh lễ cùng với Cha Phêrô Nguyễn Văn Khiêm - Phụ trách Giáo lý hạt Xóm Chiếu; Cha Phêrô Giuse Maria Hà Thiên Trúc – Phụ trách Giáo lý hạt Gia Định và Cha Hilariô Hoàng Đình Thiều – Tu hội Nazaret.
Sau bài ca nhập lễ “Từ muôn phương” và lời chào đầu lễ, cha chủ tế Phêrô đã giới thiệu với cộng đoàn về hình ảnh hữu hình của Hội Thánh. Đó chính là cộng đoàn phụng vụ khi quay quanh bàn tiệc của Lời và Thánh Thể. Hội Thánh sống động ấy được làm nên bởi sự hiện diện của từng người trong cộng đoàn. Và cha mời gọi cộng đoàn phụng vụ cùng cầu nguyện cho nhau được cảm nghiệm một cách sâu xa mỗi người chính là người nhà của Thiên Chúa.
Trong phần chia sẻ Lời Chúa, Cha Phêrô Nguyễn Văn Hiền đã giúp cộng doàn phụng vụ tin nhận Giáo hội chính là một dấu chỉ tuyệt vời về mầu nhiệm Phục Sinh. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử và với nhiều yếu đuối, mỏng giòn và  khuyết điểm nhưng cộng đoàn ấy vẫn tồn tại và phát triển là nhờ vào sức mạnh của chính Đức Kitô Phục Sinh.
Trong  bối cảnh Năm Tân Phúc Âm hóa Giáo xứ và Cộng đoàn sống đời Thánh hiến thì Tuần lễ Giáo lý 2015 sẽ là dịp để tham dự viên củng cố cảm nghiệm về Giáo hội. Vì Giáo hội là dấu chỉ của Đấng Sống lại và Giáo hội ấy là chính mỗi thành viên trong cộng đoàn nên mỗi người phải góp phần trong việc trở thành chứng từ của Đức Kitô Phục Sinh.
Cha cũng đã tha thiết nguyện ước: “Trong Tuần lễ Giáo lý này, xin Chúa giúp mỗi người được lớn lên trong cảm nghiệm sâu xa về Giáo hội, ý thức sâu xa mình là người nhà của Thiên Chúa, để chúng ta cùng nhau chia sẻ đời sống và sứ vụ của Hội Thánh, đặc biệt trong việc giáo dục Đức Tin”.
Cùng với những câu chuyện đời thường rất thật và với cách diễn giảng mạch lạc, cha chủ tế đã giúp cộng đoàn ý thức hơn vị trí, vai trò và sứ vụ của mỗi người trong ngôi nhà Hội Thánh.
Thánh lễ tiếp diễn trong bầu khí trang nghiêm, lắng đọng.
Trước khi ban phép lành, Cha Phêrô đã gióng lên hồi trống Khai mạc Tuần lễ Giáo lý. Thánh lễ khép lại cùng với bài hát và cử điệu nhịp nhàng của bài hát chủ đề.
Sau khi nghỉ giải lao, vào lúc 20g00, tham dự viên trở về vị trí để bắt đầu bước vào đề tài sinh hoạt chủ đề: “Khởi đi từ việc nhận diện con người Việt Nam đến việc đổi mới chính con người GLV và đổi mới cung cách phục vụ của GLV”. Đề tài do Nữ tu Pascale Lê Thị Tríu, Dòng Nữ tử Bác Ái Vinh Sơn, trình bày. Do không đủ thời gian nên thuyết trình viên chỉ trình bày bối cảnh lịch sử của dân tộc và nhận diện con người Việt Nam qua từng thời kỳ. Phần còn lại sẽ được trình bày tiếp vào ngày hôm sau.
Chương trình Khai mạc Tuần lễ Giáo lý 2015 được khép lại lúc 20g30. Mọi người ra về với mong ước được học hỏi nhiều điều bổ ích trong Tuần lễ Giáo lý, nhờ đó được “lớn lên trong cảm nghiệm sâu xa về Giáo hội, ý thức sâu xa mình là người nhà của Thiên Chúa và để cùng nhau chia sẻ đời sống và sứ vụ của Hội Thánh, đặc biệt trong việc giáo dục Đức Tin”.
KHAI MẠC TUẦN LỄ GIÁO LÝ 2015
Được biết, ngoài Đề tài sinh hoạt chủ đề trên, Tuần lễ Giáo lý còn có các Đề tài sinh hoạt chuyên đề sau:
1. Vui sống Tin Mừng
 2. Giáo dục Đức tin cho người trẻ theo tinh thần thánh Gioan Bosco
 3. Hướng dẫn sử dụng sách Giáo lý dành cho lứa tuổi 7-9 (GL phổ thông)
 4. Giáo lý cho người khuyết tật trí tuệ (GL Hoàn cảnh đặcbiệt)
 5. Giáo lý Hôn Nhân góp phần thế nào trong việc xây dựng gia đình mái ấm hiệp thông và cầu nguyện, luôn biết tìm kiếm chân lý và sống trong tình yêu của ThiênChúa (GL Hôn Nhân)
  6.  Anh Chị Em là những người thợ cùng với Chúa Giêsu xây nên ngôi đền thờ thiêng liêng cho Thiên Chúa,nghĩa là: xây Hội Thánh trong tâm thức của Ngài – theo mục tiêu Ngài nhắm tới –với thái độ tiếp cận của Ngài (GL Dự tòng).
Và Tuần lễ Giáo lý 2015 của TGP Sài Gòn sẽ kết thúc với Đại hội GLV, vào thứ Bảy 25.07.2015.
Nguồn: http://tgpsaigon.net/baiviet-tintuc/20150722/31482

Người Công giáo Singapore kỷ niệm 50 năm quốc gia độc lập


WHĐ (22.07.2015) – Ngày 09 tháng Tám là ngày kỷ niệm 50 năm Singapore độc lập, nhưng người Công giáo Sigapore đã quy tụ cử hành Thánh lễ, mừng sớm ngày kỷ niệm này vào đầu tháng Bảy.

Năm 1963 Singapore giành được độc lập từ Anh Quốc và khi ấy chỉ là một tiểu bang của Malaysia. Đến năm 1965 Singapore mới hoàn toàn độc lập khi tách khỏi Malaysia, sau những bất ổn chính trị và những rắc rối về quan hệ sắc tộc.

“Đây là năm thánh, năm vui mừng vì Thiên Chúa phục hồi mọi sự nên trọn vẹn”, cha Derrick Yap, O.F.M., chủ tịch Uỷ ban kỷ niệm 50 năm Singapore độc lập, phát biểu.

Cha Yap cho biết: “Chúng tôi được mời gọi thánh hóa quốc gia và sự kiện này là để mừng những gì chúng tôi đã làm,nhưng cũng là để hướng đến tương lai với một nguồn sinh lực và hy vọng mới – Hãy để ánh sáng Chúa Kitô soi chiếu các dân tộc!”

Khoảng 10.000 người đã quy tụ tại sân vận động trong nhà Singapore hôm 04 tháng Bảy để tham dự Thánh lễ tạ ơn,cùng với vị Sứ thần Toà Thánh là Đức Tổng giám mục Leopoldo Girelli; Thủ tướng Lý Hiển Long; và đại diện các tôn giáo khác.




Thánh lễ được cử hành để tôn vinh các nhà truyền giáo đầu tiên đã mang Đức tin đến Singapore và đã hy sinh đời sống phục vụ người dân và xây dựng đất nước này.

Cha Yap cho biết: “Niềm vui ở khắp nơi. Biến cố này cũng là dịp để Giáo hội trẻ trung hóa, phục hồi và chữa lành những nơi nào cần đến, và nhìn về phía trước với niềm hy vọng. Dịp này không chỉ là cơ hội để Giáo hội chia sẻ những đóng góp của mình trong công cuộc xây dựng đất nước, mà còn đoàn kết mọi người Công giáo ở đây trong mối dây liên kết với nhau hơn nữa”.

Trong lời mở đầu, Đức Tổng giám mục William Goh Seng Chye của Singapore đã ca ngợi những nỗ lực không mệt mỏi của các nhà truyền giáo tiên phong trong việc loan báo Chúa Kitô và ngài nhấn mạnh rằng “các ngài đã trung thành với sứ vụ của mình”.

Nhấn mạnh đến vai trò mục vụ đặc biệt của Giáo hội trong các lĩnh vực giáo dục, y tế, dịch vụ xã hội và phát triển con người toàn diện, Đức Tổng giám mục Goh nói: “Giáo hội đã luôn là tiếng nói của người nghèo, người thiệt thòi, và củanhững ai đang ở sát bên lòng Chúa”.

Ngài còn nói thêm, “Giáo hội tiếp tục thực thi sứ vụ hiệp nhất và nhận ra những người nghèo mới ở giữa chúng ta, là những người dễ bị tổn thương vì chủ nghĩa tương đối, chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa vật chất, chủ nghĩa tiêu thụ, và những tác động tiêu cực của internet và các phương tiện truyền thông xã hội, nhất là giới trẻ và các gia đình, là những thành phần làm nên những tảng đá xây dựng xã hội”.




Trong bài giảng, Đức Tổng giám mục Goh cũng nhắc lại Thông điệp Laudato Si’ mới đây của Đức Thánh Cha Phanxicô và kêu gọi: “Chúng ta cần phải chăm sóc môi trường để các thế hệ sau có thể tiếp tục vui hưởng những thành quả của trái đất”.

Đức Tổng giám mục Goh nhấn mạnh rằng Giáo hội sẽ cộng tác chặt chẽ với chính phủ Singapore “để ngăn ngừa suy đồi đạo đức, củng cố thể chế hôn nhân, thúc đẩy công lý, hòa bình và hòa hợp ... và đào tạo người tín hữu thành những công dân có trách nhiệm”.

Trong bài diễn văn với người Công giáo nhân dịp này, Thủ tướng Lý đã ca ngợi công việc mục vụ to lớn của Giáo hội và nói: “Giáo hội là một đối tác có trách nhiệm, đáng tin cậy và nhạy cảm, giúp chúng tôi củng cố xã hội đa sắc tộc và đa tôn giáo của chúng ta”.

(Theo CNA)

Minh Đức
Nguồn: http://www.hdgmvietnam.org/nguoi-cong-giao-singapore-ky-niem-50-nam-quoc-gia-doc-lap/7153.57.7.aspx

Thứ Ba, 21 tháng 7, 2015

Đồng tính luyến ái và chuyển giới tính: một nhận định trên phương diện Khoa học và Luân lý Công giáo


Trên thế giới hiện nay có nhiều chính trị gia nổi tiếng, đồng tính công khai, gặt hái nhiều thành công to lớn trong sự nghiệp chính trị như nữ Bộ trưởng tài chính của Úc và là thượng nghị sĩ bang Adelaide, bà Penny Wong. Tân đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam, ông Ted Osius, được xem là nhà ngoại giao xuất sắc, đồng thời là người đồng tính công khai thứ bảy mà Tổng thống Obama đã bổ nhiệm giữ chức vụ đại sứ của Hoa Kỳ. Sự kiện này được đưa ra như một chứng cứ về sự quân bình, trưởng thành tâm cảm của những người đồng tính luyến ái và biện minh hôn nhân đồng tính. Như linh mục Xavier Thévenot, SDB, một giáo sư thần học luân lý từng nhận định, nhiều người Công giáo hiện nay, đặc biệt là giới trẻ, cảm thấy bối rối khi chạm trán với những biến đổi sâu sắc về phong hóa trong xã hội. Họ cảm thấy giáo huấn Giáo Hội Công giáo dường như tỏ ra xa lạ với thế giới quanh mình. Đồng thời họ cũng băn khoăn, tự hỏi những khám phá mới của khoa học trong lãnh vực tính dục, y sinh học...có thật sự đưa con người tiến bộ không? Phải làm thế nào để trở nên “người hơn” trong thế giới nhiều biến động hôm nay? 2
Bài viết này là một cố gắng nhỏ bé thử xem xét hai vấn đề khá “nóng bỏng” trong lãnh vực tính dục ngày nay: Đồng tính luyến ái và chuyển giới tính. Có vài hiểu lầm giữa đồng tính luyến ái và chuyển giới tính. Bài viết đề cập đến hai vấn đề này trên phương diện khoa học và luân lý Công giáo.
PHÂN BIỆT GIỚI TÍNH TRÊN PHƯƠNG DIỆN Y KHOA
I. GIỚI TÍNH BÌNH THƯỜNG
Nam: người mang bộ nhiễm sắc thể 46XY, cơ quan sinh dục bên trong gồm 2 tinh hoàn, bộ phận sinh dục ngoài là nam.
Nữ: người mang bộ nhiễm sắc thể 46 XX, cơ quan sinh dục bên trong gồm 2 buồng trứng, tử cung, bộ phận sinh dục ngoài là nữ.
Giới tính bao gồm năm khía cạnh: bộ nhiễm sắc thể, cơ quan sinh dục bên trong, bộ phận sinh dục ngoài, nội tiết tố (hormone) giới tính, và tâm lý giới tính. Ở một con người bình thường, năm khía cạnh này phải thống nhất và hài hòa.
Nội tiết tố có thể xem như là các sứ giả hóa học thông tin cho các mô (tissues) trong cơ thể để mang lại các sự thay đổi chuyển hóa khác nhau. Ở người nữ, nội tiết tố sinh dục là oestrogen và progesterone. Oestrogen được sản xuất chủ yếu bởi buồng trứng (ở nửa đầu chu kỳ kinh nguyệt và thêm progesterone vào nửa chu kỳ sau) và bởi bánh nhau khi có thai. Oestrogen chịu trách nhiệm về phát triển dậy thì và cho các đặc tính thể lý ở người nữ như cơ quan sinh dục trong, cơ quan sinh dục ngoài, vú. Nó bảo đảm sự tăng trưởng niêm mạc tử cung trong nửa chu kỳ đầu của kinh nguyệt và chuẩn bị nội mạc tử cung sẵn sàng nuôi dưỡng thai khi có thai.
Androgens là các nhóm nội tiết tố sinh dục nam đem lại cho người đàn ông các đặc tính “nam,” hay gọi tắt là nam tính. Các nội tiết tố này thiết yếu cho chức năng tình dục và sinh sản. Chúng cũng chịu trách nhiệm cho sự phát triển các đặc tính giới tính phụ nơi người nam bao gồm sự tăng trưởng của lông và râu trên thân thể, phát triển bắp cơ và xương. Nội tiết tố tình dục chủ yếu của nam là testosterone, chịu trách nhiệm cho quá trình dậy thì, vốn được sản xuất chủ yếu bởi tinh hoàn (testis). Chức năng khác của testosterone là thay đổi dây thanh âm để tạo ra giọng nam; gây xung động tình dục và chức năng tình dục; sự tăng trưởng và chức năng của tuyến tiền liệt (prostate gland); sản xuất tinh trùng (sperm production).
Tuyến yên (pituitary gland), một tuyến nhỏ nằm trong não, kiểm soát bài tiết nội tiết tố của tinh hoàn (ở nam) và buồng trứng (ở nữ). Tuyến yên điều khiển tinh hoàn hay buồng trứng thông qua hai nội tiết tố: – Luteinising hormone (LH) và Follicle stimulating hormone (FSH) – cũng được gọi là gonadotrophins. Tuyến yên lại chịu sự kiểm soát của một tuyến lân cận cũng nằm trong não, gọi là tuyến dưới đồi (hypothalamus). Vậy, bất cứ rối loạn nào ở tinh hoàn, buồng trứng, tuyến yên, tuyến dưới đồi đều có thể gây rối loạn sản sinh nội tiết tố nam hay nữ. Vùng vỏ của tuyến thượng thận (adrenal glands) còn tiết ra nội tiết tố nam, androgen. Hoạt tính sinh dục của androgen vỏ thượng thận rất ít, chỉ rõ khi có sự bài tiết gia tăng bệnh lý.
II. LƯỠNG TÍNH (INTERSEX)
Đây là trường hợp bệnh lý do rối loạn phát triển hệ thống cơ quan sinh dục vào thời kỳ bào thai. Hệ sinh dục của con người gồm có ba phần: các tuyến sinh dục trong, đường sinh dục và các bộ phận sinh dục ngoài. Chúng có nguồn gốc cấu tạo khác nhau và chịu ảnh hưởng của các tác nhân khác nhau khi hình thành. Việc bộ phận sinh dục ngoài không rõ ràng được gọi là tình trạng lưỡng tính (từ ngữ “bình dân” hay được sử dụng là “ái nam ái nữ”).
1. LƯỠNG TÍNH THẬT
Rất hiếm. Những người này có cả tinh hoàn và buồng trứng (tách riêng hay nhập chung thành tuyến tinh hoàn – buồng trứng) nhưng chúng thường không có tính năng hoạt động. Khi đứa trẻ mới ra đời, có thể các bác sĩ đã phát hiện thấy cơ quan sinh dục ngoài phát triển không có giới tính rõ ràng, dương vật rất nhỏ và có khi nứt ở niệu đạo. Vào thời kỳ dậy thì, ở người đó có thể đồng thời xuất hiện cả các đặc tính nam và nữ, thậm chí có cả kinh nguyệt. Nhiễm sắc thể là 46XX/46XY (một số tế bào mang 46XX và một số tế bào mang 46 XY) hoặc là loại hình hỗn hợp của cả hai loại trên. Nguyên nhân gây lưỡng tính thật là có bất thường trong quá trình tăng trưởng phân định giới tính.
Phần lớn các trường hợp “ái nam ái nữ” thường gặp là lưỡng tính giả.
2. LƯỠNG TÍNH GIẢ
Lưỡng tính giả ở nữ: Bệnh nhân là nữ, có buồng trứng hẳn hoi, nhưng do tuyến thượng thận sản xuất quá nhiều nội tiết tố nam androgen nên bộ phận sinh dục ngoài bị “nam hóa”, như âm vật phì đại, hai môi lớn to và dính nhau như bìu. Trường hợp nam hóa nặng có thể tạo nên đoạn niệu đạo – âm vật giống như ở người nam có tinh hoàn ẩn. Nguyên nhân thường gặp nhất là hội chứng thượng thận– sinh dục. Một số trường hợp do mẹ có dùng thuốc chứa androgen khi mang thai, mẹ bị u buồng trứng nam hóa (u buồng trứng tiết ra androgen).
Lưỡng tính giả ở nam: Bộ nhiễm sắc thể vẫn là 46 XY như mọi đàn ông khác, nhưng bộ phận sinh dục lại giống nữ. Nguyên nhân là nội tiết tố nam testosterone và MIS – một chất cần cho sự phát triển giới tính nam – không được tiết ra đủ.
Bệnh nữ hóa có tinh hoàn: Người bệnh có tinh hoàn và có bộ nhiễm sắc thể 46XY, là đàn ông nhưng cơ quan sinh dục ngoài không nhạy cảm với testosterone nên không biệt hóa thành dương vật. Họ có âm đạo (thường bị tịt một đầu, không có tử cung, có vòi tử cung nhưng kém phát triển). Đến khi dậy thì, vú lớn lên nhưng không hành kinh, lông mu ít hay không có. Các tinh hoàn thường ở trong bụng hay ống bẹn, cũng có khi ở môi lớn. Về phương diện phôi thai học, các người này giống lưỡng tính giả ở nam, song họ không có cảm giác lưỡng tính mà coi mình là phụ nữ do bộ phận sinh dục ngoài giống như người nữ bình thường, được nuôi dạy như nữ.
Loạn sinh tuyến sinh dục kết hợp: Các trường hợp này cũng rất hiếm: Bệnh nhân có tinh hoàn một bên, bên kia không rõ ràng. Cấu trúc đường sinh dục thường là nữ, song đôi khi cũng có vài cấu trúc dạng nam. Các bộ phận sinh dục ngoài có thể là nữ, nam hay pha trộn cả hai. Khi dậy thì, bệnh nhân không phát triển vú, không hành kinh.
Các trường hợp nghi ngờ lưỡng tính cần được bác sĩ khám kỹ để tìm nguyên nhân, từ đó xác định biện pháp xử lý. Các người đàn ông bị hội chứng Klinefelter – mang thừa nhiễm sắc thể nữ (47XXY) – giờ đây vẫn có thể có con, nếu được trải qua phẫu thuật để phục hồi tinh trùng.
III. CÓ HAY CHĂNG GIỚI TÍNH THỨ BA?
Theo Hãng tin AFP, ngày 2–4–2014, Tòa án Tối cao Úc ra phán quyết thừa nhận sự tồn tại của “giới tính thứ ba”, không phải là nam hoặc nữ. Tòa án Tối cao Úc cho rằng không phải tất cả mọi người đều bị buộc phải xác nhận mình là nam hay nữ. Năm 2013, Đức thông qua luật cho phép trẻ sơ sinh mang đặc điểm của cả nam và nữ được đăng ký giới tính không xác định.3 Chúng ta nghĩ gì về sự kiện này?
Một mặt, đúng như vừa trình bày ở trên, chúng ta thấy có những người lưỡng tính, khó xác định nam hay nữ, nên việc Đức thông qua luật cho phép trẻ sơ sinh mang đặc điểm của cả nam và nữ được đăng ký giới tính không xác định là có thể hợp lý. Trong tương lai, những đứa trẻ này cần được y học giúp đỡ để xác định giới tính và ổn định tâm lý. Mặt khác, từ “giới tính thứ ba” là không hợp lý, có thể gây nhiều lầm lẫn. Thật vậy, truyền thống xã hội xây dựng gia đình ổn định dựa trên hiểu biết hai giới tính nam và nữ. Lưỡng tính là một bệnh lý, như y học đã xác định, không nên “bình thường hóa” bệnh lý bằng cách gọi tên là “giới tính thứ ba”.
IV. CHUYỂN GIỚI TÍNH (TRANSGENDER)
Theo thống kê về giới tính học của thế giới, tỉ lệ thích chuyển giới ở nam là 1/30.000 người. Ở nữ, tỷ lệ này là 1/100.000 người.4 Những người này, bộ nhiễm sắc thể, cả tuyến sinh dục bên trong lẫn bộ sinh dục bên ngoài hoàn toàn bình thường, nhưng do một yếu tố nào đó chưa xác định, họ có rối loạn về tâm lý giới tính, cảm thấy không hài lòng về phái tính của mình, ước ao sống phái tính ngược lại. Một số người tìm cách phẫu thuật để chuyển giới.
ĐỒNG TÍNH LUYẾN ÁI
Trước kia, có nhiều quan niệm sai lầm và hình ảnh rập khuôn về các người đồng tính luyến ái và các hành vi tình dục của họ, làm nhiều người trong chúng ta nhìn họ bằng con mắt không mấy thiện cảm, đặc biệt trong xã hội Việt–Nam, khi chưa có nhiều nghiên cứu sâu xa nghiêm túc về nhóm người đồng tính luyến ái. Hơn nữa, tỉ lệ nhiễm HIV xảy ra cao hơn ở những người nam đồng tính hay người nam luyến ái cả hai giới dường như củng cố thêm các phê phán ác cảm hay phân biệt đối xử đối với các người đồng tính.
I. SỰ MÔ TẢ RẬP KHUÔN VÀ PHÂN BIỆT ĐỐI XỬ
Một trong các vấn đề đầu tiên của đồng tính luyến ái là sự giải phóng khỏi các suy nghĩ, mô tả rập khuôn, và một số hình thức phân biệt đối xử. Có nhiều hiểu lầm từ phía xã hội và đa số dân chúng đối với các người đồng tính luyến ái. Các kiểu mô tả thiên kiến về người đồng tính luyến ái như là bất bình thường, vô trách nhiệm, bệnh lý, nguy hiểm... Sự không chấp nhận của xã hội khiến nhiều người đồng tính cố gắng che giấu khuynh hướng tình dục của họ, để họ có thể sống một cách êm thắm không bị dị nghị trước mắt xã hội. James Harrison kêu gọi sự chú ý về điều mà có lẽ chúng ta không ý thức: “Các người đồng tính là các người đồng nghiệp mà chúng ta tôn trọng, các người thân thuộc mà chúng ta yêu mến. Họ là bạn bè, cô dì chú bác...”5 Khi một người ý thức được khuynh hướng đồng tính của mình, người ấy cũng thường ý thức được sự khác biệt của mình với đa số dân chúng. Hội đồng Giám mục tại Anh quốc nhận xét: “Ý thức về sự khác biệt, thuộc về một nhóm thiểu số, làm cho người đồng tính chịu đựng vấn đề giống như các loại nhóm thiểu số khác, nhưng còn thêm một điều là giữ kín sự khác biệt đó...Trong một xã hội mà họ là đối tượng của sự trêu chọc và khinh miệt, nói chung người đồng tính cảm thấy tự ti, và cô độc mà các người khác khó lòng, hay không thể hiểu được.”6
Dường như xã hội bị cuốn vào cái vòng xoáy: phản ứng xã hội không dung nạp lan rộng đối với người đồng tính khiến cho họ giữ kín khuynh hướng của mình, sự giữ kín này càng làm cho đa số dân chúng ít hiểu biết về họ, và từ đó càng tạo ra sợ hãi, hiểu lầm, mô tả thiên kiến, phân biệt đối xử của xã hội đối với nhóm người đồng tính.7
II. ĐỊNH NGHĨA VÀ PHÂN BIỆT
1. CĂN TÍNH TÍNH DỤC (sexual identity): mỗi cá nhân đều có căn tính tính dục, có thể chia làm bốn loại.
Giới tính sinh học (biological sex): dựa trên trạng thái thể lý của chúng ta là nam hay nữ.
Căn tính giới tính (gender identity): là chúng ta cảm nhận thế nào là nam, là nữ. Căn tính giới tính bắt đầu hình thành từ hai tuổi, khi bé trai ý thức mình khác bé nữ, hay bé nữ thấy có điều gì mà bạn nam không giống mình. Ý thức này đóng góp phần quan trọng trong hình thành nhân cách là nam, là nữ.
Vai trò theo giới tính (gender roles): là những hy vọng, trông đợi của xã hội về hành vi cá nhân dựa trên giới tính sinh học. Điều này khá rõ ràng. Ví dụ từ lúc sinh ra, bé gái được cho đồ chơi búp–bê, thêu may, lựa màu hồng, màu vàng, bé trai chơi súng, máy bay, lựa màu xanh, màu trắng. Trong đời sống, người mẹ hay la con trai: “đừng khóc nhè như con gái”, hay khuyên dạy “con trai phải can đảm”. Hiểu biết vai trò nam nữ trong xã hội ngày nay thay đổi nhiều do phong trào nữ quyền và nền thần học nữ giới.
Khuynh hướng tình dục (sexual orientation): chỉ đến cái giới tính sinh học mà chúng ta bị hấp dẫn. Khác phái tính luyến ái (heterosexual) là bị hấp dẫn bởi phái khác. Luyến ái cả hai phái (bisexual) là bị hấp dẫn bởi cả hai phái trong các thời điểm khác nhau. Đồng tính luyến ái (homosexual) là bị hấp dẫn thể lý bởi người cùng phái tính.
2. ĐỊNH NGHĨA
Vài định nghĩa về người đồng tính luyến ái thường được dùng:
– là những người ít nhiều, một cách thường xuyên cảm thấy một ước muốn tình dục hướng về, và một đáp ứng tình dục đối với người cùng giới tính, và tìm cách thỏa mãn ước ao này với người đồng phái.
– là một người “trong đời sống trưởng thành được thúc đẩy bởi một sự hấp dẫn tình dục đối với người cùng phái tính và thường (nhưng không một cách nhất thiết) dấn thân vào các tương quan tình dục với người đồng phái.” 8
– là người “cảm thấy thoải mái và được khẳng định khi thân mật với người đồng tính, trong khi với người khác phái thì họ cảm thấy yếu ớt, bất bình, sợ hãi, hay đơn giản là dửng dưng hay ít thoải mái khi có cơ hội gần gũi tình dục, hay khi nó xảy ra.”9
Như vậy, nói chung, một người đồng tính luyến ái, một cách cơ bản, là người dửng dưng với sự hấp dẫn thể lý của người khác phái và nghiêng chiều một cách vững bền và chủ yếu để tìm kiếm sự thỏa mãn tình dục và/hay thỏa mãn tình cảm và hạnh phúc trong tương quan với người cùng phái. Còn các người thỉnh thoảng có kinh nghiệm thích người cùng phái không có nghĩa là người đó đồng tính luyến ái. Có những người không bao giờ một cách rõ ràng có hành vi hay tiếp xúc tình dục với người cùng phái, nhưng thật sự là đồng tính luyến ái bởi khuynh hướng thường xuyên và sâu xa bị hấp dẫn tình dục bởi người cùng phái, chỉ với người cùng phái họ mới có thể tìm được cảm giác hạnh phúc.
Đồng tính luyến ái là một hiện tượng phức tạp. Các nhà nghiên cứu Bell and Weinberg khám phá ra sự khác biệt lớn lao đáng kể trong nếp sống và nhân cách trong số hơn một ngàn nam nữ đồng tính luyến ái được phỏng vấn trong nghiên cứu của họ.
3. PHÂN BIỆT
– Luyến ái cả hai giới (bisexuals): là người chuyển từ luyến ái người khác phái tính sang luyến ái người cùng giới mà đa số nguyên nhân chưa rõ ràng. Có trường hợp người nam có vợ con bình thường, nhưng sau một thời gian bỗng thấy dửng dưng với vợ, không còn thèm muốn vợ và quan hệ tình dục với người nam khác. Có thể có trường hợp mà nguyên nhân là quan hệ với người vợ không được hạnh phúc. Ngoài ra, tôi gặp một trường hợp, một nữ bệnh nhân kể rằng bà lấy chồng năm 19 tuổi, có hai người con, nhưng đến năm 23 tuổi, tự nhiên mất kinh nguyệt và trở nên thích người nữ. Bà ấy ý thức điều này là bất thường, bà cố gắng chống lại khuynh hướng này nhưng không cưỡng được ham muốn người đồng giới, cuối cùng bà bỏ chồng con và sống chung với một người phụ nữ khác. Có thể nghĩ đến chăng trường hợp ở đây có liên quan đến thay đổi nội tiết tố trong người phụ nữ ấy, một loại bệnh lý thật sự?
– Giả đồng tính luyến ái (Pseudo–homosexuals): họ là người khác phái tính luyến ái nhưng vì có môi trường thuận lợi tiếp xúc với người cùng phái, nên dấn thân trong các hành vi đồng tính luyến ái để thoả mãn tình dục. Đây là trường hợp nơi một số trại lính, trại giam, cư xá sinh viên và có thể ngay cả trong chủng viện hay dòng tu.
Các hành vi đồng tính luyến ái trong đời tu thường liên quan đến đời sống thiếu trưởng thành trong tình cảm và nhân cách, và đôi khi sử dụng quyền lực một cách sai lạc trong tương quan giữa một người bề trên và bề dưới.
III. VÀI HIỂU BIẾT TÂM SINH LÝ – LUẬT TỰ NHIÊN
Vài quan sát cần được ghi nhận. Cần lưu ý, trong khi hành vi tình dục phần lớn phát xuất từ sự chọn lựa hay quyết định có ý thức, còn khuynh hướng tình dục của một người thì không như vậy. Người ta không chọn cho mình khuynh hướng tình dục. Không ai hình thành một cách đơn giản trí khôn họ để trở thành khác phái tính luyến ái hay đồng tính luyến ái.
Có kinh nghiệm về đồng tính luyến ái riêng rẽ và trong thời kỳ nhất định không có nghĩa là người ấy đồng tính luyến ái. Một số thanh niên, một cách đặc biệt, có thể kinh nghiệm sự hấp dẫn tình dục với người cùng phái và có thể đôi khi dấn thân vào hoạt động tình dục công khai với người cùng phái, nhưng các kinh nghiệm này thông thường chỉ phản ánh sự hiếu kỳ và biểu hiện của một trong các giai đoạn của phát triển tâm lý tính dục. Như thế, các biểu hiện này không chỉ ra rằng các thanh niên ấy là đồng tính hay sẽ trở thành đồng tính suốt đời.
Trong ánh sáng của các quan sát này, có thể rút ra hai điều:
1.     Cần phân biệt giữa khuynh hướng đồng tính của một người với hành vi tình dục đồng tính rõ ràng xảy ra do sự hấp dẫn thể lý mà người đó cảm thấy đối với một người cùng phái;
2.     Bởi vì không phải mọi hành vi tình dục đồng tính công khai đều phản ánh một khuynh hướng đồng tính thật sự, chúng ta phải công nhận rằng có hiện tượng giả đồng tính luyến ái.
Có một sự tương đồng ở đây giữa người khác phái tính luyến ái và người đồng tính luyến ái. Những người khác phái tính luyến ái không cố ý chọn cho mình khuynh hướng đó, mà nhận thức khuynh hướng của mình một cách tự nhiên. Cũng như thế, các người đồng tính luyến ái không làm các chọn lựa có ý thức rằng bị hấp dẫn tình dục bởi các người cùng giới. Đúng hơn, vào một thời điểm trong quá trình phát triển, người đồng tính khám phá ra họ bị lôi kéo tình dục về người cùng giới.
Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ đã từ lâu thừa nhận điều trên. Năm 1973 các giám mục Hoa Kỳ đã viết: “Có thể nói một cách không sai rằng một người nam hay nữ không ước muốn trở thành đồng tính luyến ái. Vào một thời điểm nhất định trong đời sống, một người khám phá ra rằng anh ấy/chị ấy là đồng tính và thường chịu đựng một số chấn thương tâm lý.”10 Một số nhà tâm lý học, như William Kraft cho rằng khuynh hướng đồng tính luyến ái tự nó không phải là không lành mạnh, nhưng hành vi đồng tính mới là vấn đề.
Năm 1976, các giám mục Hoa Kỳ viết: “Vài người tìm thấy rằng họ không có lỗi gì đóng góp vào khuynh hướng đồng tính của họ.”11 Năm 1990 các giám mục Hoa Kỳ xác định tính vô tội của khuynh hướng đồng tính: “bởi vì nó không được tự do chọn lựa, nên không phải là tội lỗi.”12 Câu này rất quan trọng vì nó khẳng định rằng do khuynh hướng tình dục không phải tự ý chọn lựa, nên khuynh hướng tình dục của một người, cho dù đồng tính luyến ái tự nó không phải là vấn đề của đánh giá luân lý. Tuy nhiên, theo ý riêng tôi, không phải bởi vì khuynh hướng đồng tính luyến ái của một người không do người đó chọn lựa, chỉ “phát hiện” ra khuynh hướng đó trong chính mình tại một giai đoạn nào đó của đời sống, mà chúng ta có thể xem khuynh hướng đồng tính đó là “tự nhiên”, “bình thường”. Thí dụ, một người chợt phát hiện ra mình mắc bệnh, chẳng hạn như mắc bệnh Tự Miễn (là một loại bệnh mà tế bào lympho trong cơ thể người bệnh không nhận ra được tế bào của chính mình, nên tạo ra kháng thể tự chống lại tế bào của chính mình, và hậu quả là người bệnh bị tổn thương ở nhiều cơ quan và sau cùng là cái chết), tuy họ không chọn lựa, nhưng bệnh Tự Miễn vẫn là một bệnh lý cần điều trị và phải điều trị.
Tài liệu “Tuyên Ngôn về một số vấn đề liên quan đến đạo đức tính dục” 1986 của Bộ Giáo lý Đức tin khẳng định: “Mặc dù sự nghiêng chiều cách riêng của người đồng tính không phải là một tội, nhưng đó là ít nhiều khuynh hướng mạnh mẽ hướng về một sự xấu luân lý nội tại (thực hiện hành vi tình dục đồng tính) và vì vậy sự nghiêng chiều tự nó phải bị xem như là một rối loạn khách quan.” Bộ Giáo lý Đức tin thừa nhận rằng các người đồng tính thường “quảng đại và hiến dâng”, tuy nhiên “khi họ thực hiện hành vi đồng tính thì họ tự khẳng định bên trong chính mình một sự nghiêng chiều tình dục rối loạn.”
Tài liệu 1986 của Bộ Giáo lý Đức tin đã phân biệt thêm các nguyên nhân ngoại lai tạo nên khuynh hướng đồng tính: “Khuynh hướng đến từ sự giáo dục sai lầm, do sự thiếu sót trong phát triển tình dục bình thường, do thói quen, do gương xấu, hay do các nguyên nhân tương tự khác, và là tạm thời, hay ít nhất là không phải không thể chữa lành được.” Một số người đồng tính ở đây được mô tả như nạn nhân của một loại kém may mắn, hay một loại rối loạn nào đó.
Một số thần học gia lý luận rằng tự nó–sự ước muốn quan hệ tình dục với người đồng phái tính– không có gì sai trái, vì ngay cả người khác phái tính luyến ái cũng có khi ước muốn tình dục với người khác không phải là vợ hay chồng của mình, hay người tu sĩ ở một giây phút nào đó, chợt thấy mình ước ao tình dục với một ai đó. Đúng là ước muốn tình dục với một ai đó không phải chồng hay vợ mình, là sai khách quan, nhưng chưa phải là sự xấu luân lý. Điều làm cho ước muốn đó trở nên xấu là khi người ấy chiều theo ý muốn đó, dù mới trong ý nghĩ; còn nếu bản thân đương sự đấu tranh với chính mình để vượt qua ước muốn sai trái, thì họ không những không phạm lỗi, mà còn có “công trạng” chiến đấu. Thật ra, cho dù người đồng tính không thực hiện hành vi tình dục đồng tính, thì cảm quan luân lý tự nhiên cũng cho thấy rằng khuynh hướng đồng tính là một điều gì trái ngược với tự nhiên, vì tình dục con người vốn phải được đặt nền tảng trên sự yêu thương tương hỗ, hài hòa giữa người nam và người nữ. Đó là một trong những sự việc hiển nhiên của đời sống, mà con người bình thường tự nhiên chấp nhận không cần chứng minh. Và, thực tế nhiều sự thật trong đời sống được nhìn nhận như lẽ đương nhiên, như là vợ chồng phải là một nam và một nữ, con cái phải hiếu thảo với cha mẹ, vợ chồng phải trung thành, nhớ ơn kẻ giúp mình,... ai làm điều trái ngược với các điều trên, tự nhiên bị dư luận phê phán. Bạn có thể chấp nhận hay không chấp nhận chân lý hiển nhiên, nhưng chân lý vẫn là chân lý. Sự chối bỏ chân lý không thể biến đổi chân lý thành điều không đúng. Từ ngữ la–tinh “per se nota” (dịch sát nghĩa: được biết trong chính nó) được dùng cho nguyên lý này. Cảm quan này giải thích tại sao thông thường khi người ta phát hiện ra một ai đó là đồng tính luyến ái, phản ứng tự nhiên của họ là thấy “kỳ kỳ” ...
Về mặt y khoa, người nam và người nữ rất khác biệt nhau trong cấu trúc thể lý và tâm lý. Bởi vì họ khác nhau và tương hỗ cho nhau, và hài hòa với nhau, cho nên khi người nam và nữ kết hợp thân xác, thì khả năng thụ thai, sinh con là hoàn toàn có thể. Văn hóa Á Đông nói đến hỗ tương âm dương trong vận hành vũ trụ và trong chính con người. Khi mất hài hòa âm dương thì sinh ra bệnh lý. Trường hợp hai người nam hoặc hai người nữ quan hệ thân xác, thì việc thụ thai là điều hoàn toàn không thể có được. Điều này trái với luật tự nhiên. Sinh sản là một trong những khía cạnh tình dục nơi thực–động vật và nơi con người. Một số người có thể phản biện rằng các phụ nữ mãn kinh cũng có tình dục, nhưng không thể sinh con, hoặc có một số cặp vợ chồng vô sinh do bệnh lý bẩm sinh hay mắc phải. Điều đó là đúng, nhưng những người này vẫn hành động theo hỗ tương nam–nữ tự nhiên.13
Một người có thể có khuynh hướng đồng tính luyến ái nhưng không dấn thân các hành vi đồng tính luyến ái. Khuynh hướng này phức tạp và có thể tự nó không có tự do chọn lựa nhưng bị điều kiện hóa bởi một số điều kiện tâm sinh lý mỗi người. Tuy nhiên hành vi đồng tính luyến ái có thể được tự do chọn lựa. Người thực hiện hành vi đồng tính luyến ái có thể không có trách nhiệm về khuynh hướng đó của họ, nhưng họ có trách nhiệm về những gì họ chọn lựa và những gì họ làm. Vì vậy cái giá để là một người đồng tính lành mạnh là loại bỏ tất cả mọi hành vi tương quan tình dục đồng tính.
IV. GIÁO HUẤN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO VỀ ĐỒNG TÍNH LUYẾN ÁI 14
1. NỀN TẢNG KINH THÁNH
Vincent Genovesi S.J, lưu ý hai điểm trước khi tìm hiểu chi tiết vài đoạn Kinh Thánh liên quan đến đề tài đồng tính luyến ái. Trước hết, như học giả Tân ước Victor Paul Furnish nhắc nhở, người ta “không luôn luôn đồng ý về thẩm quyền của Kinh thánh nên được hiểu thế nào, cách riêng trong các giáo huấn cụ thể về luân lý.” Lời nhắc nhở này phù hợp cho việc tìm hiểu giáo huấn luân lý trong cả Cựu ước và Tân ước. Các tác giả thánh cũng chịu ảnh hưởng bởi lịch sử và văn hóa thời họ sống, và có một mục đích và đối tượng xác định trong trí tác giả. Về các giáo huấn liên quan các vấn đề luân lý cụ thể của thánh Phaolô, theo Furnish, cần có sự biện biệt khôn ngoan, không nên chấp nhận một cách đương nhiên và tôn kính như “con bò vàng”, cũng không thể loại bỏ hoàn toàn. Furnish giải thích rằng thánh Phaolô lúc đó đang viết cho các cộng đoàn Kitô hữu cụ thể với các đặc điểm văn hóa, chính trị, xã hội mà Ngài hiểu rõ, và rất khác với xã hội ngày nay, vì vậy chúng ta phải giải thích các thư của Ngài, bao gồm cả các huấn thị về luân lý.
Thứ hai, cũng như các từ ngữ “khác phái tính luyến ái”, “luyến ái cả hai phái”, các khái niệm “đồng tính luyến ái”, “người đồng tính” được tìm hiểu, phân tích hiểu rõ hơn nhờ các nghiên cứu tâm lý học hiện đại, và sự hiểu biết này chưa có trong thời Kinh Thánh được viết ra. Khái niệm “khuynh hướng đồng tính luyến ái” có lẽ chưa có trong tâm trí tác giả thánh, và các điều về đồng tính luyến ái mà Kinh Thánh nói đến hầu như để chỉ hành vi đồng tính.15
Xét đoạn văn St 19: trong nhiều thế kỷ truyền thống Kitô giáo chấp nhận quan điểm rằng đoạn văn này chỉ ra tội mà từ đó thành Sôđom bị phá hủy là hành vi đồng tính, hành vi này vì thế còn có được gọi là “sodomy”. Tuy nhiên, vài đoạn khác của Kinh Thánh dường như cho thấy sự hiểu trên không đúng. Thí dụ, ngôn sứ Giêrêmia nói rằng tội của Sôđom là ngoại tình, nói dối, và sự không muốn hối cải (Gr 23, 14); ngôn sứ Ezêkiel công bố rằng tội của dân thành Sôđom là “kiêu ngạo, phè phỡn ham ăn uống, tự cao tự đại, tự mãn”, “không ra tay giúp đỡ người nghèo khổ bần cùng, chúng tự cao tự đại và làm điều ghê tởm” (Ed 16, 49–50). Sách Khôn Ngoan xác định các tội lỗi của Sôđom như điên cuồng, kỳ thị, không đón tiếp khách lỡ đường (Kn 19, 13–14).
Trong Tin mừng Luca và Matthêu, chúng ta thấy Chúa Giêsu nói đến Sôđom trong bối cảnh là Ngài sai các môn đệ vào các thành phố rao giảng Tin Mừng, Ngài dặn các môn đệ nếu thành phố nào không đón tiếp các ông thì hãy ra khỏi thành đó, giũ bụi dép, và Ngài nói rằng trong ngày Nước Thiên Chúa đến, thành phố đó sẽ bị phạt còn nặng hơn thành Sôđom (Lc 10, 10–12; Mt 10, 14–15). Ở đây, Chúa Giêsu dường như liên kết Sôđom với tội không hiếu khách. Tuy nhiên, hai đoạn 2 Pr 2, 4–10 và Giuđa 7 đúng là giải thích câu chuyện của Sôđom nghiêng về tội tình dục. Vậy, có thể kết luận rằng khó thuyết phục khi kết luận tội của Sôđom là tội phạm hành vi đồng tính; tuy nhiên, cũng không có gì vô lý khi kể rằng một trong các tội của Sôđom là có hành vi đồng tính.
Vài đoạn Cựu ước rõ ràng kết án hành vi đồng tính: Lv 18, 22, “Ngươi không được ăn nằm với đàn ông như đàn bà, đó là điều ghê tởm.” Lv 20, 13 “Khi người đàn ông nào nằm với người đàn ông như nằm với người đàn bà, thì cả hai đã làm điều ghê tởm, chúng phải bị xử tử, máu chúng đổ xuống đầu chúng.” Tác giả thánh loại trừ khỏi Dân của Thiên Chúa những ai hành xử theo đồng tính luyến ái.
Dựa vào giải thích của Martin Noth,16 Genovesi gợi ý rằng cần xem xét đoạn văn trên trong bối cảnh chung của toàn bản văn, đó là các quy luật về sự thánh thiện, trong đó có cả cấm đoán “Ngươi không được đến gần một người đàn bà đang bị ô uế vì kinh nguyệt, để lột trần chỗ kín của nó” (Lv 18,19), và nếu hai vợ chồng quan hệ thân xác vào lúc người vợ đang có kinh nguyệt thì cũng bị “khai trừ khỏi dân chúng” (Lv 20,18). Genovesi lý luận rằng vì rõ ràng điều kết án trong Lv 18,19 và Lv 20,18 là không đúng với hiểu biết hiện nay, nên giá trị của đoạn kết án hành vi đồng tính cũng phải xem xét lại.
Tuy nhiên, chúng ta thấy dù có bị ảnh hưởng văn hóa, nhưng lại có sự thống nhất, hằng định vững bền trong Kinh Thánh, Tân ước nối tiếp Cựu ước, cùng kết án hành vi đồng tính, như Bộ Giáo lý Đức tin đã khẳng định:
“Thật đúng là văn chương Kinh Thánh phụ thuộc vào các thời kỳ khác nhau... Giáo Hội ngày nay rao giảng Tin Mừng cho một thế giới vốn khác nhau về nhiều phương diện so với ngày xưa...
Điều nên chú ý là, trong sự hiện diện của sự đa dạng đáng kể như thế, nhưng lại có một sự hằng định rõ ràng trong chính Kinh Thánh về vấn đề luân lý của hành vi đồng tính. Giáo thuyết của Giáo Hội về vấn đề này vì vậy không phải dựa trên vài câu rời rạc dùng cho sự lý luận thần học dễ dàng, nhưng trên nền tảng vững chắc của một bằng chứng Kinh Thánh hằng định. Cộng đoàn đức tin ngày nay, trong sự kế tục không đứt đoạn với các cộng đoàn Do Thái và Kitô hữu mà bên trong đó Kinh Thánh cổ xưa đã được biên soạn, tiếp tục được nuôi dưỡng bởi cùng Kinh Thánh và bởi Thần Khí Chân Lý mà Kinh Thánh là Lời của Thần Khí đó. Một cách chính yếu, cần nhìn nhận rằng Kinh Thánh không được hiểu một cách chính xác khi chúng được giải thích theo một cách thức đối nghịch với Truyền Thống sống động của Giáo Hội. Một cách đúng đắn, việc giải thích Kinh Thánh phải hòa hợp một cách căn bản với Truyền Thống đó.” 17
Thật vậy, sách Sáng Thế từ xa xưa tuyên bố rõ ràng rằng Thiên Chúa đã dựng nên con người là nam và nữ: “Vì thế người nam lìa bỏ cha mẹ mình để kết hợp với vợ mình và cả hai trở thành một thịt” (St 2, 24). Trong chương 19 Tin Mừng Matthêu, Chúa Giêsu trích dẫn đoạn này và nói từ khởi đầu nó đã như thế rồi.
Bô Giáo lý Đức tin cũng giải thích:
“Dựa trên nền tảng của sự trình bày luật thần quyền, một quan điểm cánh chung đã được thánh Phaolô khai triển trong 1 Cr 6, 9 khi ngài đề nghị cùng một giáo thuyết và liệt kê những ai hành xử theo đồng tính luyến ái vào số các người sẽ không được vào Nước Thiên Chúa.
Đoạn Rm 1, 18–32, vẫn xây dựng trên các truyền thống luân lý của các vị tiền bối, nhưng trong bối cảnh mới của sự chạm trán giữa Kitô giáo và xã hội ngoại giáo thời của ngài, thánh Phaolô sử dụng hành vi đồng tính luyến ái như một thí dụ của sự mù quáng đã chinh phục con người. Thay vì sự hòa hợp nguyên thủy giữa Đấng Tạo Hóa và thụ tạo, sự méo mó gay gắt của thờ ngẫu tượng đã dẫn đến mọi loại quá trớn luân lý. Thánh Phaolô không tìm thấy một thí dụ nào rõ ràng hơn về sự bất hòa hợp này là các quan hệ đồng tính luyến ái. Cuối cùng, 1 Tm 1, hoàn toàn tiếp nối với lập trường Kinh Thánh, tách những kẻ đã loan truyền giáo thuyết sai lạc và trong câu 10, minh nhiên gọi những ai làm hành vi đồng tính luyến ái là kẻ tội lỗi.”18
2. HUẤN QUYỀN HIỆN NAY
Trên phương diện thần học luân lý, không thích hợp để gắn nhãn hiệu một người là đồng tính luyến ái, ngay cả khi họ có khuynh hướng này. Bởi vì, điều cơ bản hơn là nhân vị nơi mỗi người này. Thật vậy, chính Giáo Hội cũng không xem mỗi người là khác phái tính luyến ái hay đồng tính luyến ái và nhấn mạnh rằng mỗi con người có căn tính cơ bản: đó là tạo thành của Thiên Chúa, và bởi ân sủng, trở thành con cái của Thiên Chúa và thừa hưởng sự sống vĩnh cửu.
Lập trường truyền thống và hiện thời của Giáo Hội Công giáo Rôma có thể tóm tắt như sau: Giáo hội Công giáo truyền thống cho đến nay lên án hành vi đồng tính luyến ái vì nó trái với luật tự nhiên. Hành vi đồng tính luyến ái không được chấp nhận trong mọi hoàn cảnh. Đồng tính luyến ái phá vỡ cấu trúc truyền thống của gia đình, là căn bản tốt lành của xã hội và thúc đẩy xã hội phát triển. Con người sinh ra là nam và nữ theo hình ảnh của Thiên Chúa trong kế hoạch quan phòng của Ngài. Hôn nhân là bối cảnh tự nhiên và mẫu mực cho các diễn tả tình dục (x. Rm 1,26–27). Thực tế hôn nhân đồng tính phá vỡ cấu trúc gia đình truyền thống vốn là căn bản tốt lành xây dựng xã hội và nuôi dưỡng con người (x. Giáo lý Hội Thánh Công giáo số 2357, 2387).
V. QUYỀN CÔNG DÂN VÀ VẤN ĐỀ CHÍNH SÁCH LUẬT PHÁP VỀ HÔN NHÂN ĐỒNG TÍNH
Người đồng tính được hưởng đầy đủ quyền công dân. Cho đến nay hôn nhân đồng tính được hợp pháp hóa trên 14 quốc gia: Hà Lan (2001), Bỉ (2003), Tây Ban Nha (2005), Canada (2005), Nam Phi (2006), Na Uy (2008), Thụy Điển (2009), Bồ Đào Nha (2010), Iceland (2010), Argentina (2010), Đan Mạch (2012), Uruguay (2013), New Zealand (2013), và Pháp (2013).19 Luật pháp các nước này cho phép các người đồng tính luyến ái đầy đủ các quyền lợi hợp pháp, trách nhiệm và sự bảo vệ mà hôn nhân mang lại cho họ. Tại ba nước Hoa Kỳ, Mexico và Brazil, chỉ có một số bang cho phép các cặp đồng tính kết hôn.
Tại Việt Nam, từ tháng 7 năm 2013, dự thảo sửa đổi Luật Hôn nhân và Gia đình liên quan hôn nhân đồng tính trải qua nhiều kỳ họp thảo luận, tham vấn ý kiến. Đã có lúc việc kết hôn của người đồng tính tưởng như được công nhận, tuy nhiên (may thay!) về sau, cánh cửa cho hôn nhân đồng tính vẫn khép lại. Ủy ban Thường vụ Quốc hội hiện tại đề nghị bỏ điều “cấm hôn nhân cùng giới” và chuyển thành “không thừa nhận”.20
Từ quan điểm của Giáo Hội Công giáo về tính không hợp luân lý của hành vi đồng tính, dễ thấy được, Giáo Hội Công giáo vẫn luôn không đồng ý việc kết hôn giữa người đồng tính, tuy tôn trọng phẩm giá của các người đồng tính và kêu gọi đối xử bình đẳng. Có nhiều tài liệu bàn về bản chất hôn nhân Công giáo, trong giới hạn bài viết, tôi không đi sâu về điều này. Chỉ muốn thêm rằng những gì là tự nhiên, thì cũng hiển nhiên. Các lập luận ủng hộ, hay các hợp pháp hoá hôn nhân đồng tính và các phán quyết của các quan toà sẽ không bao giờ khiến cho các hành vi đồng tính hoặc hôn nhân đồng tính trở nên đúng.21
VI. VÀI ĐIỂM NHẤN VỀ MỤC VỤ CHO NGƯỜI ĐỒNG TÍNH LUYẾN ÁI
Với các người mà khuynh hướng đồng tính xuất hiện có tính không bền vững, thì có “trách nhiệm đạo đức” là cố gắng hướng về những tương quan yêu thương với người khác phái.
Với nhiều lý do, (ví dụ để có được sự tôn trọng, để tránh bị chất vấn về khuynh hướng tình dục của họ, bởi vì ước muốn trở thành cha mẹ, bởi vì họ cảm thấy vô nghĩa nếu theo đuổi đời sống độc thân nhưng lại sợ hãi bị kết án vì hành vi đồng tính luyến ái) một số người nam, nữ đồng tính luyến ái đã cố gắng thử các quan hệ khác phái và cả hôn nhân. Ngay cả với ý hướng tốt nhất và nỗ lực tối đa, các người này thường thấy rằng họ không có khả năng thiết lập được một cuộc hôn nhân khác phái thật sự với đầy đủ ý nghĩa chia sẻ và hiệp thông yêu thương vợ chồng. Trong các trường hợp này không có sự hòa hợp hỗ tương lẫn nhau của hai con người, sự nhận định theo đó là không có sự hợp nhất hôn nhân hiệu lực giữa hai người. Thật vậy, vì họ thiếu khả năng cần có là hoàn thành nền tảng của nhu cầu tình cảm yêu thương của một cuộc sống chung của hai người khác phái.
Vấn đề đặt ra là sau thất bại của các cố gắng thiết lập tình yêu với người khác phái, các người đồng tính này có thể có những hành vi tình dục đồng tính mà không “phạm tội”? Nữ thần học gia luân lý Hoa Kỳ, Lisa Cahill gợi ý rằng hôn nhân khác phái là mẫu mực cho hôn nhân Công giáo, nhưng các nhà luân lý tính dục Công giáo nên xem xét “khi nào, tại sao, và như thế nào” thì có thể có vài “ngoại lệ” (exception)? Cahill gợi ý rằng hành vi đồng tính luyến ái như mô tả trên nên được xét là “không mẫu mực nhưng là trường hợp ngoại lệ có thể biện minh một cách khách quan.” Khả năng ngoại lệ này chỉ giới hạn đối với các hành vi đồng tính giữa các người có mối tương quan bền vững và dấn thân yêu thương nhau thật sự.
Điều gợi ý này của Lisa Cahill rõ ràng không được chấp nhận bởi Huấn quyền. Xét trường hợp các người đồng tính dấn thân trong những mối tương quan yêu thương độc nhất, bền vững, Các Giám Mục Công giáo Anh quốc công bố rằng “thật là một sự tương đồng giả tạo và không thể chấp nhận” khi so sánh những tương quan như thế với sự hiệp nhất của hôn nhân khác phái tính. Bất cứ hoạt động tình dục nào xảy ra trong các tương quan đồng tính bền vững vẫn luôn là sai lạc một cách khách quan, nhưng mục tử và người giải tội cần “phân biệt giữa các hành vi tình dục vô trách nhiệm, tùy tiện với các liên kết lâu bền giữa hai người đồng tính, các người cảm thấy không thể kéo dài cuộc sống độc thân mà không có các diễn tả tình dục.” Khi ấy vị mục tử phải lưu ý rằng chăm sóc mục vụ phải xem xét cá nhân trong tình huống hiện tại của anh ấy/chị ấy, với tất cả sức mạnh và yếu đuối của cá nhân ấy.”
Tuy tỏ ra thương cảm các người đồng tính dấn thân trong mối tương quan bền vững và đôi khi có diễn tả bằng hành vi tình dục, Giáo Hội Công giáo vẫn luôn thừa nhận rằng hành vi đồng tính luôn là điều xấu khách quan, Huấn quyền nhấn mạnh rằng các người này phải nhắm đến, và phấn đấu cho việc loại trừ tất cả hành vi tình dục đồng tính trong suốt đời sống.
Các giám mục Công giáo Hoa Kỳ họp tại Baltimore tuyên bố trong một tài liệu chăm sóc người đồng tính năm 1981:“Giống như các người khác phái tính luyến ái, các người đồng tính tiêu biểu cho tình huống trong đó người ấy tìm thấy chính mình, và từ đó khởi điểm cho việc đáp ứng cá nhân đối với tiếng gọi của Đức Kitô đến sự hoàn hảo. Đáp ứng tiếng gọi này không có nghĩa là người ấy bắt buộc phải thay đổi khuynh hướng này. Đúng hơn, tiếng gọi đòi hỏi người ấy phải sống khiết tịnh trong khuynh hướng đó. Sứ vụ của Giáo Hội Công giáo cho các người đồng tính luyến ái, nam và nữ, luôn là một sứ vụ mục vụ. Nó không chỉ đơn thuần lặp lại thách thức Đức Kitô đặt để cho một thế hệ; nó tìm kiếm để làm việc với từng cá nhân, xem xét đến sức mạnh và yếu đuối của từng người, và giúp cá nhân thực hiện trách nhiệm một cách trọn vẹn có thể trong từng tình huống giây phút cuộc sống.”
Các mục tử và người tư vấn phải nhạy cảm đối với các biến động bên trong, có thể là phần kinh nghiệm của những người đồng tính luyến ái. Như các giám mục Anh quốc nói: “Các người đồng tính có thể cảm thấy rằng thiên nhiên trong một cách nào đó đã lừa dối họ và tạo ra những căng thẳng không đáng...họ có thể bị xâu xé khi khám phá rằng...khuynh hướng tình dục nơi họ không phải do lỗi cá nhân mà lại làm phát sinh làn sóng chống đối, chối bỏ trong xã hội...họ có thể cảm thấy rằng Giáo Hội đang đòi hỏi các mẫu mực không thể được.”
Thật ra, ngay cả những người khác phái tính luyến ái mà độc thân, cũng có nhiều lúc cảm thấy đòi hỏi tình dục thân xác, nhưng không vì thế mà họ có thể tìm đến các quan hệ thân xác ngoài hôn nhân. Vậy những người đồng tính luyến ái cũng được mời gọi vượt thắng nhu cầu tình dục thân xác bằng các biện pháp tâm lý và thiêng liêng như cầu nguyện, tăng cường đời sống trí thức và siêu nhiên, mở rộng hoạt động bác ái phục vụ tha nhân, người bệnh tật nghèo khổ...
Một số điểm thông tin cần thiết, theo linh mục Vincent Genovesi, SJ:
– Thiếu chính xác khi cho rằng phần lớn những người đồng tính là bị hấp dẫn thể lý với trẻ em và ước muốn quan hệ tình dục với đối tượng này.
– Đừng nghĩ một cách đương nhiên là tâm lý các người có khuynh hướng đồng tính là không ổn định hay người ấy dâm dục.
– Không chính xác khi nói rằng các người đồng tính đơn giản chỉ cần sức mạnh của ý chí để có thể tái định hướng các quan tâm tình dục của họ. Thật vậy, không có con đường dễ dàng để tái định hướng tình dục hiệu quả, và do đó các người đồng tính luyến ái không nên bị chỉ trích một cách quá đương nhiên nếu họ ngần ngại về việc tái thích ứng tình dục qua trị liệu.
– Không đúng khi khẳng định rằng những người đồng tính có tỉ lệ rối loạn tâm thần cao.
– Không chính xác khi giả định rằng những người khuynh hướng đồng tính giới hạn chỉ trong một số tầng lớp xã hội hay nghề nghiệp nào đó.
Các giám mục Hoa Kỳ khuyên các mục tử và các vị giải tội tránh cả hai thái độ khắc nghiệt và buông thả, khi tư vấn các người có hành vi đồng tính. Cần lưu ý không nên nói với các người đồng tính rằng họ không chịu trách nhiệm cho hành động của họ, các giám mục tuy nhiên cũng quan sát trong trong phần lớn trường hợp các người đồng tính không có hoàn toàn tự do của ý chí, điều này chỉ ra rằng có sự giảm nhẹ trách nhiệm luân lý cho các hành vi tình dục đồng tính của họ. Các người có khuynh hướng đồng tính nên được động viên đào sâu đời sống thiêng liêng. Cùng lúc họ nên được giúp để ý thức rằng cho dù dùng biện pháp nào để bắt đầu một nếp sống mới, “rất có thể sẽ có tái phạm bởi vì thói quen lâu dài, nhưng điều này không được cho phép để trở thành một dịp cho sự tự ti vô ích.”
VII. ĐỒNG TÍNH LUYẾN ÁI VÀ ƠN GỌI TU TRÌ, LINH MỤC
Bộ Giáo dục Công giáo năm 2005 ra Chỉ thị “Về các tiêu chuẩn để nhận định ơn gọi đối với các người có khuynh hướng đồng tính luyến ái, trong việc thâu nhận vào chủng viện và chức thánh,” nói rằng các thanh niên thực hành hành vi đồng tính luyến ái, hay có khuynh hướng đồng tính vững bền, không được thâu nhận vào các chủng viện, cũng được áp dụng cho các dòng tu. Đức giáo hoàng Benedictô XVI chấp thuận hướng dẫn này và cho phép ấn hành ngày 31 tháng 8, năm 2005.22
Theo CWNews 3.11.2008, tại một cuộc họp báo trong đó ban hành các nguyên tắc chỉ đạo về việc dùng Tâm lý học trong việc tiếp nhận và đào tạo các ứng sinh cho chức linh mục của Bộ Giáo dục Công giáo, Đức hồng y Zenon Grocholewski, Tổng Trưởng, đã tái khẳng định rằng các người có khuynh hướng đồng tính vững bền, dù không thực hành hành vi tình dục đồng tính cũng không thể được truyền chức linh mục. Ngài nói: “Không nhất thiết ứng sinh nầy phải thực hành tình dục đồng tính mới bị loại khỏi việc truyền chức, mà ngay cả khi không phạm tội, nhưng có khuynh hướng sâu sắc, thì cũng không được chấp nhận cho thừa tác vụ linh mục chính là vì tự bản chất chức linh mục nói lên một tình phụ tử thiêng liêng. Ở đây chúng ta không nói người ấy có phạm tội hay không, mà khuynh hướng ăn rễ sâu nầy vẫn còn hay không.” Giáo Hội Công giáo, tuy đồng cảm với các người có khuynh hướng đồng tính vững bền, vẫn luôn khẳng định đồng tính luyến ái là một kiểu lệch lạc nào đó, trái với tự nhiên, và không tương hợp với việc thực thi chức linh mục, trong việc thiết lập quan hệ với tha nhân.23
Bài viết tiếp tục với đề tài chuyển giới tính, mà trong cuộc sống, đôi khi lẫn lộn với đồng tính luyến ái, hay lưỡng tính.
CHUYỂN GIỚI TÍNH
Vấn đề chuyển giới tính mới chỉ nổi cộm tại Việt Nam khoảng thập kỷ nay. Chưa có nhiều nghiên cứu sâu xa nghiêm túc về vấn đề này. Một cách khiêm tốn, bài viết đề cập trên phương diện lý thuyết ít ỏi biết được.
Như trên đã định nghĩa, theo y học, chuyển giới là trường hợp một người hoàn toàn là người nam về mặt sinh học – nghĩa là bộ nhiễm sắc thể 46XY, có bộ phận sinh dục nam hoàn chỉnh – gồm tinh hoàn, thừng tinh, ống dẫn tinh, tuyến tiền liệt, dương vật, giọng nói trầm, không có bầu ngực, không tuyến sữa..., nhưng lại cảm nhận mình là người nữ, khát khao là người nữ nên muốn chuyển đổi giới tính thành người nữ; hoặc ngược lại, một người nữ mang bộ nhiễm sắc thể 46 XX, có bộ phận sinh dục nữ hoàn chỉnh, có buồng trứng, tử cung, vòi trứng, âm đạo, hàng tháng có kinh nguyệt, có vú phát triển, có tuyến sữa nhưng vẫn cứ cảm nhận mình là nam và muốn trở thành người nam!24 Khát khao này đôi lúc rất mãnh liệt khiến người ấy thậm chí không muốn sống nếu không được chuyển giới.25
Tại Việt Nam, một số người chuyển giới được biết đến như chuyên gia trang điểm Cindy Thái Tài, ca sĩ Cát Tuyền, ca sĩ Lâm Chí Khanh, Hương Giang idol, cô giáo Phạm Lê Quỳnh Trâm, nhà thiết kế Franky Nguyễn...
I. TIẾN TRÌNH Y HỌC ĐỂ CHUYỂN GIỚI
Việc chuyển đổi giới tính là cả một quá trình lâu dài và phức tạp. Có thể tóm tắt như sau:
– Khám lâm sàng, làm tất cả các xét nghiệm cần thiết. Tiến hành tư vấn tâm lý.
– Dùng thuốc nội tiết liên tục trong một thời gian nhằm giúp một số bộ phận cơ thể họ thay đổi. Ở nam giới – muốn thành nữ giới – sự thay đổi ấy là lông, râu giảm bớt, giọng nói trở nên trong trẻo, các cơ bắp tay, chân nhỏ lại nhưng vú, mông thì to ra, tinh hoàn teo nhỏ. Ở nữ giới – muốn thành nam giới– cơ bắp to ra, giọng nói trở nên trầm, kinh nguyệt hết, lông, râu mọc nhiều hơn. Thuốc nội tiết có một số tác dụng phụ của việc phải sử dụng, như chóng mặt, cao huyết áp, thay đổi tính tình, tăng cân, trầm cảm...”.
– Phẫu thuật. Sau điều trị bằng thuốc nội tiết, một số bộ phận trong cơ thể đã thay đổi hết mức, người chuyển giới sẽ được làm phẫu thuật, bao gồm cắt bỏ cơ quan sinh dục trong, phẫu thuật bộ phận sinh dục ngoài để tạo hình bộ phận sinh dục mới, nâng ngực cho to lên (nếu muốn thành đàn bà) hoặc thu nhỏ bộ ngực (nếu muốn là đàn ông). Phải trải qua vài lần phẫu thuật mới có thể hoàn chỉnh. 26
– Về việc phẫu thuật, một số bác sĩ cho rằng cuộc giải phẫu sẽ đem lại hậu quả tích cực cho tâm lý của đương sự. Nhưng sâu xa, vẫn là một sự thay đổi giả tạo và vì thế đương sự vẫn không cảm thấy thanh thản bình an. Do đó, một cách khách quan giải phẫu không phải là thần dược như một số người nghĩ. 27
– Sau khi làm xong, cả đàn ông lẫn đàn bà đều không còn khả năng sinh đẻ. Hơn nữa, phải sử dụng thuốc nội tiết – hầu như suốt đời nên ắt hẳn ảnh hưởng đến sức khỏe như sốc thuốc, tai biến nghẽn mạch, giảm tuổi thọ...
– Theo một vài báo cáo, chi phí tốn cho các ca giải phẫu chuyển giới ở nước ngoài khoảng 10.000 – 12.000 USD, mức thấp hơn là 4.000 – 6.000 USD. Thêm vào đó, chi phí chích nội tiết tố từ 120.000– 200.000 đồng/2 ống/tuần. Một số người chuyển giới tự mua và chích nội tiết tố, không có sự tư vấn của chuyên gia y tế đã dẫn đến những hệ lụy khó lường.
Bên cạnh đó, người chuyển giới còn cần được theo dõi, nâng đỡ trong nhiều năm về mặt thể trạng, tâm lý và quá trình hội nhập cộng đồng. Theo Nghị định 88 và Thông tư số 29 của Nhà nước Việt Nam về xác định lại giới tính thì chỉ những bệnh viện có đủ điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị, đặc biệt là nhân lực – đội ngũ chuyên gia về các lĩnh vực liên quan đến xác định lại giới tính, phải được Bộ Y tế hoặc Sở Y tế cho phép thì mới được xác định lại giới tính. Trong Nghị định 88 cũng giải thích rõ về trường hợp được phẫu thuật xác định lại giới tính: 1/lưỡng tính thật; 2/ Lưỡng tính giả hay các bệnh lý loạn tuyến sinh dục làm cho bộ phận sinh dục ngoài không rõ ràng.28
Hiện Việt Nam chưa cho phép hợp thức hóa giới tính mới ở những người vốn bình thường mà chuyển giới, dù họ đã nhờ kỹ thuật tạo hình tạo cho mình một cơ thể hoàn toàn mới. Như thế, người chuyển giới gần như bị mất quyền nhân thân khi vì giới tính trong giấy tờ khác với giới tính hiện có và ngoại hình của họ. Chính điều ấy đã khiến những người đã chuyển giới lâm vào cảnh “mình chẳng phải mình”. Cô giáo Quỳnh Trâm là một thí dụ, cơ sở địa phương chấp nhận cho cô đổi giấy tờ nhân thân từ “nam” sang “nữ”, nhưng sau đó quyết định này bị chính quyền cấp cao hơn bác bỏ.29
II. QUAN ĐIỂM CÔNG GIÁO
Phần này, tôi trình bày lại theo vài suy tư của nhà thần học luân lý Xavier Thévenot, mà tôi thấy thích đáng.
1. Phải nhìn nhận ước muốn chuyển giới tính chưa phải là một điều xấu luân lý (vì chính đương sự không chọn lựa cho mình ước muốn này), nhưng như một khiếm khuyết khách quan rất nghiêm trọng làm đảo lộn cuộc sống đương sự cách sâu xa và lâu dài. Thực tế, người muốn chuyển giới và người chuyển giới gặp nhiều thách thức trong cuộc sống: sự lên án, ghét bỏ, thậm chí tấy chay, xa lánh của gia đình bạn bè, xã hội, khó khăn tìm việc làm, sức khỏe giảm sút...Tuy nhiên, những người này vẫn có khả năng đảm nhận trách nhiệm về bản thân mình. Chúng ta cần khuyến khích nâng đỡ họ sống thử thách ấy cách tích cực. Chúng ta có thể đồng hành về mặt tâm lý, giúp tìm công việc thích hợp và ổn định, tìm bạn bè tốt, thấu hiểu, lắng nghe...
2. Huấn quyền dường như chưa lên tiếng rõ ràng về việc giải phẫu chuyển giới. Nhưng dựa trên truyền thống luân lý, ta có thể nhận định rằng Huấn quyền dứt khoát bác bỏ việc giải phẫu này. Giáo hội Công giáo luôn khẳng định con người không phải “làm chủ” thân xác mình, mà là người đón nhận ơn ban Thiên Chúa, là nam, là nữ, và phải sống hòa hợp với quy luật tự nhiên ở nơi chính thân xác của mình. Con người không thể tự do thay đổi giới tính của mình chỉ vì mình “khát khao” được là giới tính ngược lại với giới tính mình khi sinh ra.
Đoạn trích trong huấn từ của Đức Piô XII với các bác sĩ ngày 13.9.1952 có thể làm sáng tỏ điều này: “Bệnh nhân không phải là chủ nhân trên hết của mình, cả thân xác lẫn tinh thần. Vì thế, bệnh nhân không thể sử dụng mình một cách tùy tiện như mình muốn. Ngay cả lý do khiến bệnh nhân làm thế tự nó cũng không đủ và không thuyết phục. Bệnh nhân bị ràng buộc vào cứu cánh nội tại mà bản tính đã định. Bệnh nhân có quyền sử dụng– dù bị giới hạn bởi cứu cánh tự nhiên– các khả năng và sức lực của bản tính con người. Vì chỉ là người thừa hưởng chứ không phải là sở hữu chủ, nên bệnh nhân không có quyền vô hạn để làm những việc như hủy diệt hay cắt bỏ vì lý do chức năng”.
Trích đoạn trên, cách nay 62 năm, không trực tiếp đề cập đến việc cắt bỏ bộ phận sinh dục, cũng như việc chích nội tiết tố để chuyển giới. Tuy nhiên, ta có thể ngoại suy và áp dụng cho việc giải phẫu chuyển giới. Việc giải phẫu chuyển giới là một sự xấu khách quan nghiêm trọng, vì nó cắt bỏ vĩnh viễn các bộ phận căn bản và lành mạnh của con người.
Tuy nhiên, mỗi người là một mầu nhiệm. Chúng ta cần tự hỏi: “Ta đã thật sự lắng nghe bệnh nhân một cách kiên trì để tìm ra ước muốn sâu xa của họ chưa?”; “Bệnh nhân đã được thông tin đầy đủ rõ ràng hậu quả của việc giải phẫu và việc dùng thuốc nội tiết tố chưa?” Gia đình của đương sự cũng cần được giúp đỡ để có thể thông cảm, nâng đỡ yêu thương đương sự đang cơn khủng hoảng tâm lý, tránh thái độ kết án, xa lánh.30

KẾT
Người đồng tính luyến ái hay người ước muốn chuyển giới, cần có những anh chị em trên đường lữ thứ trần gian của họ. Chúng ta phải là chứng nhân tình yêu của Thiên Chúa, đón tiếp họ, và can đảm, khôn ngoan, thận trọng nói cho họ biết đòi hỏi của tình yêu Thiên Chúa, nhắc cho họ mục đích tối hậu của đời người là quê Trời. Mặt khác, có lẽ những người này cũng muốn chúng ta phải nhìn nhận họ là những anh chị em có thể làm chứng cho nhân loại về Thiên Chúa: Một Thiên Chúa đã dựng nên con người có nam, có nữ và biết rõ thân phận bụi đất của ta.31 

1  Tác giả chân thành cáo lỗi rằng do vài lý do khách quan, một vài tư tưởng của vài tác giả được sử dụng, nhưng tham chiếu trong bài viết này còn thiếu sót.
2  Xavier Thévenot, Repères étiques pour un monde nouveau, 1991, Bản dịch Việt ngữ “Để xây dựng một nền luân lý cho thế giới mới”, của Đặng Xuân Thành, (Nhà Xuất bản Tôn Giáo, 2008), 5.
3  Nguyệt Phương, “Úc công nhận giới tính thứ ba”, <http://tuoitre.vn/The–gioi/601086/uc–cong–nhan–gioi–tinh–thu–ba.html>
4  Thiên Chương, “Những ngộ nhận thường gặp về người đồng tính”, <http://vnexpress.net/gl/doi–song/2007/12/3b9fd8af/>
5  James Harrison, “The Dynamics of Sexual Anxiety,” Christianity and Crisis 37 (1977), 136–40, tại tr 137, trích dẫn trong Vincent J. Genovesi, In Pursuit of Love: Catholic Morality and Human Sexuality, 2nd ed. (Philippines, 2003), 250.
6  Năm 1981, Ủy Ban Công Ích Xã Hội Công giáo, một ủy ban làm việc của các giám mục Công giáo tại Anh và Wales, đã chuẩn bị một tài liệu mang tên “Giới thiệu về Chăm Sóc Mục vụ cho các người đồng tính.” Trích dẫn ở đây từ trang 10–11, và được trích trong Vincent J. Genovesi, In Pursuit of Love, 252.
7  Vincent J. Genovesi, In Pursuit of Love, 249–253.
8  Judd Marmon, ed. Sexual Inversion (New York, Basic Books, 1965) , 4, được trích trong Genosevi,  253.
9  William F. Kraft, “Homosexuality and Religious Life,” Review for Religious 40 (1981), 371, được trích trong Genovesi, 253.
10       Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ, “Các Nguyên tắc Hướng Dẫn các vị Giải Tội trong vấn đề Đồng Tính Luyến ái,” (Washington: United States Catholic Conference, 1973), 5.
11       Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ, “To Live in Christ Jesus: A Pastoral Reflection on the Moral Life” (Washington: United States Catholic Conference, 1976), 19.
12       Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ, “Human Sexuality: A Catholic Perspective for Education and Lifelong Learning,” (Washington: United States Catholic Conference, 1991) 55.
13       Marvel Deutsch, MM, “Hôn nhân đồng tính có phản tự nhiên không?” < http://www.daminhvn.net/than–hoc/2612–hon–nhan– dong–tinh–co–phan–tu–nhien–khong.html>
14       Độc giả có thể xem thêm hai tài liệu của Bộ Giáo lý Đức tin “Tuyên Ngôn về một số Vấn đề Liên quan đến Đạo Đức Tính Dục,” 1975 và “Thư Gửi Các Giám Mục Giáo Hội Công giáo về Chăm Sóc Mục Vụ cho các người Đồng Tính Luyến Ái”, 1986.
15       Vincent J. Genovesi, In Pursuit of Love, 268–270.
16       Martin Noth, Leviticus: A Commentary (London, 1965), 16, được trích dẫn trong Genovesi, 273.
17       Bộ Giáo lý Đức tin, “Thư Gửi Các Giám Mục Giáo Hội Công giáo về Chăm Sóc Mục Vụ cho các người Đồng Tính Luyến Ái,” (1986) , số  5.
18       Bộ Giáo lý Đức tin, “Thư Gửi Các Giám Mục Giáo Hội Công giáo về Chăm Sóc Mục Vụ cho các người Đồng Tính Luyến Ái,” (1986) , số  6.
19       Phúc Duy, “Những nước hợp pháp hóa hôn nhân đồng tính” <http://www.thanhnien.com.vn/the–gioi/nhung–nuoc–hop–phap– hoa–hon–nhan–dong–tinh–31656.html>  (theo AFP )
20       Kenny Nguyễn “Người đồng tính hiểu lầm tin được phép cưới” < http://ngoisao.net/tin–tuc/thoi–cuoc/24h/nguoi–dong–tinh– hieu–lam–tin–duoc–phep–cuoi–2909748.html>
21       Marvel Deutsch, MM, “Hôn nhân đồng tính có phản tự nhiên không?”
22       Bộ Giáo dục Công giáo, “Instruction: Concerning the Criteria for the Discernment of Vocations with regard to Persons with Homosexual Tendencies in view of their Admission to the Seminary and to Holy Orders,” <http://www.vatican.va/roman_ curia/congregations/ccatheduc/documents/rc_con_ccatheduc_ doc_20051104_istruzione_en.html>
23       Bản Tin Giáo Hội số 108 năm III tuần từ 11–18.11.2008.
24       “Chuyển đổi giới tính: Không thể một sớm một chiều”, < http://vn.news.yahoo.com/chuy–n–gi–t–nh–kh–ng–th–012943483.html>
25       Phan Dương, “Ước phẫu thuật chuyển giới để được sống 1 giờ là mình”, < http://vn.news.yahoo.com/ước–phẫu–thuật–chuyển– giới–để–sống–được–011300911.html>
26       “Chuyển đổi giới tính: Không thể một sớm một chiều”,<http://vn.news.yahoo.com/chuy–n–gi–t–nh–kh–ng–th–012943483.html>
27       Xavier Thévenot, “Để xây dựng một nền luân lý cho thế giới mới”, 142.
28       Phan Dương, “Thẩm định giới tính cô giáo Quỳnh Trâm, Bộ Y tế nói gì?”, <http://vn.news.yahoo.com/th%E1%BA%A9m–%C4%91%E1%BB%8Bnh–gi%E1%BB%9Bi–t%C3%ADnh–c%C3%B4–gi%C3%A1o–qu%E1%BB%B3nh–tr%C3%A2m–004546216.html>
29       Bùi Liêm, “Không đủ cơ sở pháp lý xác định cho anh thành ‘chị’” <http://tuoitre.vn/Chinh–tri–xa–hoi/Phap–luat/518906/Khong– du–co–so–phap–ly–xac–dinh–cho–anh–thanh–“chi”.html>
30       Xavier Thévenot, “Để xây dựng một nền luân lý cho thế giới mới”, 141–144.
31       Xavier Thévenot, “Để xây dựng một nền luân lý cho thế giới mới”, 138.
Nguồn: 
 Bản tin Hiệp Thông (HĐGMVN) số 87

Bs. Trần Như Ý Lan
Nguồn: http://tgpsaigon.net/baiviet-tintuc/20150721/31467